Tại Đại hội XIII, Đảng xác định phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng Việt Nam trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN – Ảnh: qdnd.vn
1. Vai trò của nguyên tắc toàn diện trong đổi mới nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Bạn đang xem: Nguyên tắc toàn diện trong đổi mới nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nguyên tắc toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận hết sức quan trọng đã từng được V.I.Lênin chỉ rõ: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”(1). Nguyên tắc toàn diện giúp nhận thức được sự vật với tất cả các thành tố, trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người và để cải tạo được sự vật thì phải bằng hoạt động thực tiễn biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như các mối liên hệ qua lại của sự vật đó với các sự vật khác; từ đó, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi những hiện tượng tương ứng.
Trong đường lối đổi mới đất nước, ngay từ đầu, Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: phải đổi mới toàn diện. Quyết định chiến lược này phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, của các cấp, các ngành; từ bỏ tư tưởng phiến diện, giáo điều, những cách tư duy duy ý chí đã từng tồn tại trong nhiều năm trước đây. Đây là cuộc đấu tranh về quan điểm, về nhận thức lý luận, từ bỏ những quan niệm cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời về CNXH. Quyết định chiến lược này vừa khẳng định dứt khoát sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới, xác định rõ đổi mới toàn diện không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là nhận thức đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi thích hợp, vừa khắc phục các hạn chế đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo thế ổn định chính trị – xã hội của đất nước. Nguyên tắc đổi mới toàn diện mở đường cho việc đổi mới cả tư duy và đổi mới tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức hoạt động, đổi mới công tác cán bộ; đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; đổi mới đường lối đối nội và đổi mới đường lối đối ngoại.
Theo nguyên tắc toàn diện, Đảng nhận thức sâu sắc về cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp không thể tiếp tục và không phải là cơ chế giải quyết có hiệu quả các vấn đề phát triển mà cuộc sống đang đặt ra. Trong khi tiếp tục khẳng định vai trò quản lý của Nhà nước, việc nhận ra cái lỗi thời, không phù hợp, các sức ỳ, lực cản để vượt qua là sự nhận thức đúng đắn có tính chất đột phá mang ý nghĩa cách mạng của Đảng. Trên cơ sở đó, Đảng phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, không ngừng đổi mới một cách căn bản tư duy, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Trong tổng thể đổi mới toàn diện đó, Đảng ta xác định và thực hiện công cuộc đổi mới theo phương châm lấy đổi mới kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, gắn đổi mới kinh tế và đổi mới từng bước chính trị; đổi mới toàn diện, đồng bộ, nhưng có bước đi thích hợp, phải nắm vững khâu chính. Thực tế chứng minh, không thể chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới từng bước chính trị. Chính trong quá trình đổi mới kinh tế đã xuất hiện tính tất yếu phải đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Cũng từ trong đổi mới kinh tế mà nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa các bộ phận của hệ thống chính trị, trong đó có sự cần thiết phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Yêu cầu đổi mới toàn diện của nước ta bắt đầu trước hết từ đổi mới kinh tế. Chỉ có tiến hành đổi mới kinh tế, đời sống nhân dân được từng bước cải thiện và nâng cao thì mới củng cố niềm tin vào công cuộc đổi mới; đổi mới kinh tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới chính trị. Nhưng, không phải chờ cho đổi mới kinh tế xong mới bắt đầu đổi mới chính trị, mà phải đổi mới từng bước hệ thống chính trị. Chính trị là lĩnh vực cực kỳ phức tạp và hết sức nhạy cảm. Đổi mới chính trị, cải cách bộ máy nhà nước mà gây mất ổn định chính trị thì toàn bộ công cuộc đổi mới sẽ mất phương hướng, thậm chí sẽ thất bại. Vấn đề là phải tiến hành từng bước, tránh hấp tấp, vội vàng, nhất là trong tình hình đất nước có nhiều khó khăn, bối cảnh quốc tế rất phức tạp và đầy biến động. Do đó, đổi mới chính trị không có nghĩa là thay đổi bản chất của hệ thống chính trị mà chính là nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong đổi mới toàn diện về xã hội, Đảng chủ trương thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển của đất nước. Về văn hóa, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Coi trọng việc xây dựng nguồn nhân lực và vai trò, nhân tố con người, xác định giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu. Về quốc phòng, an ninh, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Về đối ngoại, Đảng chủ trương độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình, hữu nghị vì sự phát triển của đất nước, thực hiện phương châm Việt Nam là bạn và là đối tác tin cậy của các nước; tôn trọng độc lập chủ quyền của các nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
2. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thể hiện ở văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Xem thêm : Xác định mối quan hệ với chủ hộ trong đăng ký cư trú
Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hóa hơn nhận thức về mục tiêu và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Một là, nguyên tắc toàn diện được thể hiện ở mục tiêu đi lên CNXH
Cụ thể hóa mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), tại Đại hội XIII, Đảng xác định phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN, với lộ trình cụ thể: “Đến năm 2025, kỷ niệm 100 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao(2). Có thể thấy, nguyên tắc toàn diện đối với việc xác định mục tiêu đã thể hiện cách tiếp cận mới về trình độ phát triển, trình độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận của Đảng trong hơn 35 năm đổi mới, vì vậy những mục tiêu cụ thể được xác định lần này có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước.
Hai là, trong nội dung tổng kết, đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã thể hiện rất rõ nguyên tắc toàn diện
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khái quát về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII là đất nước ta đã “đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật”(3). Sự phân tích nhằm chứng minh cho nhận định khái quát trên cũng thể hiện rõ tính toàn diện khi đề cập đến tất cả các lĩnh vực, đó là: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới và có bước phát triển; phát triển văn hóa, xã hội, con người đạt nhiều kết quả quan trọng; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực; chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ XHCN tiếp tục được phát huy; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt; v.v.. Nguyên tắc toàn diện còn thể hiện không chỉ khái quát thành tựu, mà còn chỉ ra những hạn chế trong các lĩnh vực như: hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Ba là, nguyên tắc toàn diện được thể hiện ở các nội dung đánh giá 10 năm thực hiện Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011-2020
Báo cáo chính trị đánh giá, việc thực hiện các văn kiện trên đã tạo những tiến bộ quan trọng cả về nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện, khẳng định những giá trị to lớn của Cương lĩnh, tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Kinh tế, văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đồng thời, văn kiện Đại hội XIII của Đảng còn đánh giá 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Văn kiện chỉ rõ, lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(4). Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Bốn là, nguyên tắc toàn diện thể hiện ở định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030
Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương hướng phát triển đất nước trên 12 lĩnh vực rất cơ bản: “(1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường… (2) Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…; (3) Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài…; (4) Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc…; (5) Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội..; (6) Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên…; (7) Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa… (8) Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa…(9) Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc… (10) Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả…(11) Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng… (12) Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn…”(5).
Xem thêm : Thử nước tiểu với sữa tươi không đường để biết trai hay gái có chính xác không?
Năm là, nguyên tắc toàn diện thể hiện ở việc nhận thức, đề ra yêu cầu nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn
Các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng CNXH được Đảng tổng kết, hệ thống hóa lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011. Đó là 08 mối quan hệ: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đại hội XII của Đảng có sự điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” nhằm làm rõ hơn trong CNXH vẫn tồn tại kinh tế thị trường; và bổ sung thêm mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã bổ sung, phát triển thành quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”. Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(6). Như vậy, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung mới nội dung từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là sự phản ánh quy luật khách quan, mang tính biện chứng của những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(7).
Những nhiệm vụ trọng tâm và những mối quan hệ lớn cần giải quyết mà Đảng chỉ ra chính là những mặt, những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu trong chỉnh thể văn kiện lãnh đạo. Xác định đầy đủ và các nội dung trọng tâm, trọng điểm, cũng như việc coi trọng giải quyết nó trong thực tiễn sẽ mang tính quyết định cho thành công của công cuộc đổi mới.
__________________
(1) V.I.Lênin: Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.364.
(2), (3), (4), (5), (6), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.112, 59, 104, 114-119, 119, 103.
ThS NGUYỄN CÔNG AN
Khoa Lý luận chính trị
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp