1. Tìm hiểu chung về bài thơ Sang thu – Hữu Thỉnh
Tác giả Hữu Thỉnh (1928 – 2005)
– Hữu Thỉnh (1942) tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học ở Phú Vinh, Duy Phiên, Tam Đảo (Tam Dương), Vĩnh Phúc.
- Tổ hợp phím tắt máy tính thông dụng nhất mà bạn nên biết
- Nhận định đúng sai môn lí luận nhà nước và pháp luật
- Viên uống cân bằng nội tiết tố Bảo Xuân Gold có tốt không? Lưu ý khi dùng
- Nhuộm tóc màu tím than trên nền tóc đen Sự kết hợp ấn tượng
- 1001 điều cần biết về chuyên viên quan hệ khách hàng cá nhân
– Tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ năm 1963, tham gia các hoạt động tại trung đoàn 202 trong đó có viết báo và làm cán bộ tuyên huấn.
Bạn đang xem: Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Sang thu – Hữu Thỉnh
– Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Tuần báo Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam.
– Các tác phẩm chính: Sang thu, Âm vang chiến hào (in chung), Đường tới thành phố (trường ca, 1979), Tiếng hát trong rừng, Từ chiến hào đến thành phố (trường ca, thơ ngắn), Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung), Thư mùa đông (1994), Trường ca biển (1994), Thương lượng với thời gian (2005), Trăng Tân Trào (2019)…
Hoàn cảnh sáng tác
Năm 1977, khi đất nước vừa mới thống nhất hòa bình, Hữu Thỉnh đã sáng tác bài thơ Sang thu vào khoảng gần cuối năm và cho in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”.
Bố cục: 3 phần
+ Khổ 1: Cảm nhận về thiên nhiên lúc giao mùa, tín hiệu báo thu về
+ Khổ 2: Cảm nhận về quang cảnh trời đất lúc vào thu
+ Khổ 3: Những biến chuyển âm thầm của tạo vật và suy ngẫm về cuộc đời người lúc chớm thu
Giá trị nội dung
Miêu tả những chuyển biến nhẹ nhàng của đất trời từ hạ sang thu, không chỉ có hình ảnh thiên nhiên mà còn có bóng dáng con người trước mùa thu của cuộc đời.
Giá trị nghệ thuật
Sử dụng thể thơ năm chữ, hình ảnh sinh động hấp dẫn, nghệ thuật miêu tả tự nhiên chân thực, ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, gợi nhiều cảm xúc.
2. Dàn ý chung phân tích bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh
A. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về nhà thơ Hữu Thỉnh: Hữu Thỉnh là một nhà thơ viết nhiều và viết rất hay về con người, cuộc sống nông thôn – một nhà thơ mộc mạc nhưng vô cùng tinh tế.
– Dẫn dắt vào bài thơ: Bài thơ “Sang thu” được viết theo thể thơ năm chữ nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
B. Thân bài
a) Luận điểm 1: Những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời. (Khổ 1)
* Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình
– Hương ổi phả trong gió se (se lạnh và hơi khô): “Hương ổi” là làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.
– Từ “phả”: Động từ có nghĩa là tỏa vào, trộn lẫn -> gợi mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, hòa vào trong gió heo may của mùa thu, lan tỏa khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát – hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt Nam.
– “Sương chùng chình”: Những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc như một làn sương mỏng nhẹ nhàng trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm sang thu. Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn.
* Cảm xúc của nhà thơ
– Kết hợp một loạt các từ: “Bỗng, phả, hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu.
– Nhà thơ giật mình, hơi bối rối, hình như còn có chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng, thoáng qua hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra?
– Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu thấp thoáng hồn người: Chùng chình, bịn rịn, lưu luyến, bâng khuâng…
b) Luận điểm 2: Cảm nhận những chuyển biến tinh tế của đất trời lúc thu sang
– Hình ảnh thiên nhiên sang thu được nhà thơ phát hiện bằng những hình ảnh quen thuộc làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng:
+ Dòng sông quê hương thướt tha mềm mại, hiền hoà trôi một cách nhàn hạ, thanh thản -> gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên thiên mùa thu.
+ Đối lập với hình ảnh trên là những cánh chim chiều bắt đầu vội vã bay về phương Nam tránh rét trong buổi hoàng hôn.
+ Mây được miêu tả qua sự liên tưởng độc đáo bằng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết:
– “Có đám mây mùa hạ. Vắt nửa mình sang thu”: Gợi hình ảnh một làn mây mỏng, nhẹ, kéo dài của mùa hạ còn sót lại như lưu luyến.
=> Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này. Trong “Chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: “Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ.”
c) Luận điểm 3: Phân tích những tâm tư, suy ngẫm của tác giả
– Thiên nhiên sang thu còn được gợi ra qua hình ảnh cụ thể: nắng – mưa
+ “Nắng”: hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gây gắt.
+ “Mưa” cũng đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất ngờ chợt đến rồi lại chợt đi. Từ “vơi” có giá trị gợi tả, diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ.
– Hình ảnh ẩn dụ: “Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi”
+ Ý nghĩa tả thực: Hình tượng “sấm” thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sấm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu).
+ Ý nghĩa ẩn dụ: “Sấm” gợi những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn.
=> Gợi cảm xúc tiếc nuối.
C. Kết bài
– Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
+ Nội dung: “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.
+ Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ láy, tính từ gợi trạng thái, hình ảnh chân thực; nghệ thuật nhân hóa mang lại cái hồn cho bài thơ, nghệ thuật ẩn dụ tạo chiều sâu về cảm xúc và suy nghĩ.
Viết đoạn văn 1000 từ phân tích bài thơ Sang thu ngắn gọn
Nhà thơ Hữu Thỉnh (1942), tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, là một nhà thơ nổi tiếng của nhà thơ Việt Nam. Ông là hội viên hội nhà văn Việt Nam và là Chủ tịch hội Nhà văn Việt Nam, kiêm nhiệm tổng biên tập báo Văn Nghệ. Ông có rất nhiều tác phẩm tiêu biểu như Âm vang chiến hào, Đường tới thành phố, Thư mùa đông… Trong đó, bài thơ Sang Thu đem đến cho chúng ta một sự bất ngờ, một ấn tượng sâu sắc về tác giả khi ông làm toát lên được hồn của mùa thu êm đềm, mênh mang.
Sang thu được tác giả viết theo thể ngũ ngôn, gồm ba khổ thơ, mỗi câu thơ đều diễn tả một nét thu êm đềm, hình ảnh của mùa thu trong buổi đầu thu, thu mới về, thu chợt đến. Bài thơ là bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa của tác giả khi thể hiện cảnh sắc mùa thu ở đồng quê miền Bắc. Và mùa thu được cảm nhận qua “hương ổi” được phả vào làn gió thu se lạnh, một mùi hương nồng nàn, khó quên:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió dịu.
Ở đây, nhà thơ không tả mà chỉ gợi cho người đọc liên tưởng về những trái ổi vàng ươm, thơm lừng tỏa ra từ những vườn ổi quê vào những ngày giao mùa cuối hạ, đầu thu. Gió thu nhè nhẹ, se lạnh, đưa hương ổi nồng nàn phả vào không gian. Hương ổi trong thơ Hữu Thỉnh thật dân dã và gần gũi.
Sau hương ổi và gió thu se, tác giả miêu tả đến sương thu. Những giọt sương chứa đầy tâm trạng chùng chình, như cố ý để kéo dài thêm thời gian:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Hai chữ “chùng chình” diễn tả bước đi chầm chậm của mùa thu đang về. Từ ngữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán nét thu mơ hồ, như vừa chợt phát hiện và cảm nhận.
Ở khổ thơ tiếp theo, không gian của bức tranh sang thu được mở rộng cả về chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông mênh mang:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Dòng sông mùa thu nước xanh trong vắt, nhẹ nhàng êm đềm trôi. Sông nước “dềnh dàng” như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương. Thì những đàn chim lại bay vội vã, có lẽ chúng đang bay về phương Nam để tránh cái rét sắp tới. Trong cả đoạn thơ, dòng sông, những đàn chim hay đám mây đều được tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Bức tranh thu trở nên thật hữu tình và thi vị.
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Nhà thơ không dùng những từ ngữ nào khác, mà lại dùng từ vắt để miêu tả về đám mây. Đám mây như được kéo dài ra, vắt lên đặt ngang với bầu trời rồi thả mình xuống mùa thu. Câu thơ này thật sự rất hay và độc đáo, sáng tạo.
Đến khổ thơ cuối, những cảm nhận, suy ngẫm của tác giả về mùa thu được Hữu Thỉnh gửi gắm qua những câu thơ:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Những hiện tượng thiên nhiên của mùa thu vào thời điểm giao mùa như nắng, mưa, sấm được tác giả cảm nhận rất tinh tế. Những từ ngữ được dùng như vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt bất ngờ…gợi cho ta cảm nghĩ về thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên, đó là nắng mùa thu, mưa mùa thu, và cả tiếng sấm ngày đầu thu. Thời điểm này, mùa hạ có lẽ vẫn còn muốn níu giữ lại chút gì đó, nên những nắng, mưa mùa hạ vẫn còn vương vấn đất trời. Từ cảnh vật và không gian này, tác giả bỗng có những suy ngẫm về cuộc đời. Sấm và hàng cây đứng tuổi chính là những biến động của thiên nhiên, và ở đây tác giả muốn nói đến những biến cố của cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi chính là bản thân chúng ta, những ai đã từng trải, được rèn luyện qua thử thách, khó khăn nhưng vẫn đứng vững.
Hai câu kết của bài thơ có lẽ tác giả dùng để khẳng định thêm về bản lĩnh, cùng những phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Nam ta trong thời kỳ đất nước đổi mới, còn nhiều khó khăn thử thách. Dù vậy nhưng mọi người vẫn đứng vững để cùng nhau vượt qua.
Có thể nói, bằng những biện pháp nghệ thuật như nhân hóa và ẩn dụ, cùng những từ ngữ tinh tế, Hữu Thỉnh đã làm nên thành công của Sang thu. Bài thơ như tiếng lòng của tác giả gửi gắm đến bao người về mùa thu tươi đẹp, tương lai tương sáng của đất nước đang đợi chờ chúng ta ở phía trước.
Danh sách đề thi phân tích bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh
Đề 1: Phân tích bài thơ “ Sang thu” của Hữu Thỉnh
Đề 2: Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu
Đề 3: Phân tích khổ cuối bài Sang thu của Hữu Thỉnh
Đề 4: Cảm nhận khổ 2 bài thơ Sang thu của tác giả Hữu Thỉnh
Đề 5: Phân tích hai khổ đầu bài thơ Sang thu
Đề 6: Cảm nhận 2 khổ cuối Sang thu của Hữu Thỉnh
Đề 1: Phân tích bài thơ “ Sang thu” của Hữu Thỉnh
A. Mở bài
Cách 1: Hữu Thỉnh là một trong những cây bút tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, trưởng thành trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Là một nhà thơ quân đội nhưng Hữu Thỉnh rất có duyên nên khi viết về mùa thu. Những trang thơ của Hữu Thỉnh vừa nhẹ nhàng, gần gũi, tinh tế mới lạ, giọng điệu tha thiết, ngôn ngữ hình ảnh giản dị trong sáng gợi nhiều ý nghĩa biểu tượng. Nên các tác phẩm của ông được đông đảo bạn đọc đón nhận. Bài thơ “ Sang thu” là một bài thơ như thế. Đến với tác phẩm qua những câu thơ viết về cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên giao mùa từ hạ sang thu. Những cảm xúc ấy được thể hiện rất rõ qua… ( 2 khổ thơ – viết thơ)
Cách 2: Nếu mùa xuân là mùa hội tụ của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì mùa thu cũng trở thành đề tài bất tận, nguồn cảm hứng quen thuộc và lâu đời trong các tác phẩm thi ca, nhạc họa. Mùa thu với tiết trời se lạnh, chiếc lá vàng bay dễ khiến lòng người dao động. Vì thế mùa thu đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi nhân chắp bút ngợi ca. Vườn thơ thu của dân tộc đã có rất nhiều tác phẩm viết về mùa thu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên trong đó phải kể đến bài thơ “Sang Thu” của Hữu Thỉnh. Đến với tác phẩm qua những câu thơ viết về cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên giao mùa từ hạ sang thu. Những cảm xúc ấy được thể hiện rất rõ qua… ( 2 khổ thơ – viết thơ)
Cách 3: Mùa thu luôn là đề tài, là cảm hứng quen thuộc lâu đời của thơ ca. Trong kho tàng văn học dân tộc ta đã từng biết đến một mùa thu trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến, thu ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư, dào dạt và đượm buồn trong thơ Xuân Diệu. Và thật bất ngờ khi ta gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang thu”.
B. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm
– Hoàn cảnh sang tác: Bài thơ được sáng tác năm 1977 khi đất nước mới giành được độc lập 2 năm. Đây cũng là một trong những mùa thu và những người lính như Hữu Thỉnh lần đầu tiên được cảm nhận vẻ đẹp của nó trong không khí hòa bình.
– Chủ đề tác phẩm: Bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng tình yêu mùa thu, quê hương nhà thơ đã mở rộng lòng mình để đón nhận giây phút chuyển mình của cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Đồng thời bộc lộ những chiêm nghiệm, những suy ngẫm về con người, về cuộc đời vốn đầy dẫy những khó khăn thử thách.
2. Phân tích bài thơ
Khổ 1: Những tín hiệu giao mùa:
– “Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu tới có những tín hiệu đầu tiên. Viết về mùa thu các tác giả thường dùng những chất liệu quen thuộc: Sắc vàng của hoa cúc, của lá vàng rơi hay tiếng lá xào xạc của lá ngô đồng, của rặng liễu… Cò riêng Hữu Thỉnh lại đón nhận mùa thu bằng những cảm nhận tinh tế, giản dị:
Xem thêm : Dâu Da Xanh Chua Chua Ngọt Ngọt
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
+ Thu của Hữu Thỉnh được bắt đầu bằng một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se” – thứ gió khô và se se lạnh, đặc trưng của mùa thu về ở miền Bắc. Đó là “hương ổi” – mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
+ Động từ “Phả” giàu sức gợi cảm, là động từ mạnh diễn tả mùi hương thơm nồng nàn, lan tỏa. Hương ổi “phả” vào trong “gió se” đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: khiến cho hương thơm ấy như sánh lại và đậm đặc hơn. Làn gió heo may đã đưa hương ổi lan tỏa khắp các đường ngõ, thôn xóm. Để rồi ta nhận ra trong gió có mùi thơm hương ổi nồng nàn một tín hiệu rõ nhất báo mùa thơ về.
+ “Hương ổi” gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ. => Hương ổi ấy, cơn gió đầu mùa se lạnh ấy là sứ giả của mùa thu ( cũng như chim én là sứ giả của mùa xuân). Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ” đến mức chỉ một chút vô tình thôi là không một ai hay biết.
=> Kể từ đây tín hiệu chuyển mùa khi thu về không chỉ là sắc lá vàng bay, là hoa cúc vàng nở rộ, là rặng liễu đìu hiu… mà vị sứ giả đầu tiên mang đến mùa thu cho mỗi chúng ta là “hương ổi” một thứ hương quê mộc mạc, dân dã vốn đã rất thân thuộc với mọi người. Ở đây Hữu Thỉnh đã có một hình ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ so với thơ văn cổ viết về mùa thu, nhưng lại vô cùng quen thuộc và gần gũi đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về.
Chuyển ý: Tín hiệu sang thu không chỉ bằng hương ổi, gió se mà còn được gợi ra bằng hình ảnh “sương thu”. Với Hữu Thỉnh sương thu không chỉ đẹp, nhẹ nhàng, mong manh hư ảo mà còn rất con người nó đang ngập ngừng lưu luyến trước bước đi của thời gian:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
+ Nhà thơ đã nhân hóa làn sương qua từ láy “chùng chình”. Phép tu từ ấy đã thổi hồn vào những sự vật vô tri, vô giác để làn sương mỏng manh ấy như có tâm hồn, có cảm nhận riêng như ai đó đang nửa muốn đi, nửa muốn ở, ngập ngừng vương vấn khi bước chân qua ngưỡng cửa mùa thu. Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc.
* Liên hệ mở rộng: Với nhà thơ Nguyễn Du thì mùa thu như khói biếc: “Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”. Còn nhà thơ Tàn Đà thì sương thu nhẹ nhàng như hơi thở của làn khói: “ Khói thu xây thành”
+ Ở đây sương thu của Hữu Thỉnh, không phải là làn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng manh, mềm mại, giăng mắc màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên.
– “Ngõ” ở đây vừa là ngõ thực của làng quê, nhưng cũng có thể là con ngõ thong giữa hay mùa hạ và thu chăng? Tâm trạng sang thu hay tâm trạng con người đang lưu luyến đợi chờ , tiếc nuối một điều gì đó trước ngưỡng cửa thời gian.
=> Như vậy tín hiệu chuyển mùa được tác giả cảm nhận bằng tất cả các giác quan: khứu giác ( hương ổi), xúc giác (gió se) rồi đến thị giác (làn sương), tuy vậy trước những tín hiệu ban đầu ban đầu của khoảnh khắc giao mùa, cảm xúc của nhà thơ còn mơ hồ chưa rõ ràng. Cảm xúc ấy còn được thể hiện qua từ “bỗng” diễn tả tâm trạng bất ngờ như chưa kịp chuẩn bị. Và từ: “Hình như thu đã về”. Câu thơ như lời tự hỏi lòng mình là một câu hỏi tu từ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng . Từ “Hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, một tâm trạng mơ hồ, phân vân, không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.
=> Câu thơ gợi một chút mơ hồ về thời gian rõ nét đồng thời Hữu Thỉnh đã rất tinh tế thể hiện được những cảm nhận về cảm xúc giao mùa của đất trời, của lòng người một cách ngất ngây và say đắm. Phải là một con người có tâm hồn yêu thiên nhiên tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận được những tín hiệu ban đầu của khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu.
Khổ 2. Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
* Chuyển ý: Nếu khổ thơ thứ nhất là những cảm nhận về mùa thu còn mơ hồ, chưa rõ nét thì đến khổ thơ thứ hai bức tranh mùa thu đã được hiện hữu rõ ràng, đậm nét qua dấu ấn đổi thay của cảnh vật.Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
Sông được lúc dềnhdàng
Chim bắt đầu vội vã
– Dấu ấn bức tranh mùa thu được tác giả cảm nhận qua 3 nét vẽ cụ thể: với những hình ảnh:“dòng sông”, “cánh chim”, “đám mây ”.
– Hình ảnh dòng sông được tác giả miêu tả qua từ láy “dềnh dàng” cùng biện pháp nhân hóa giúp người đọc hình dung trạng thái của dòng sông mùa thu khác hẳn với mùa hạ. Nếu mùa hạ song cuồn cuộn trở nặng phù sa, dữ dội bao nhiêu thì đến mùa thu dòng sông ấy lại trở lên hiền hòa. Nó trôi một cách lững lờ, ung dung, thong thả như đang dạo chơi. Hình ảnh dòng sông gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh mùa thu đã đi qua mùa giông bão. Cái “dềnh dàng” của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời.
– Đối lập với hình ảnh hiền hòa, chậm chạp, khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động. Chim là động vật vô cùng nhạy cảm, chúng nhận ra trong gió heo may cái se lạnh của mùa thu đang về và mùa đông đang tới. Vậy nên chúng gấp gáp làm tổ, hối hả tha mồi, tất bật chuẩn bị cho những ngày tháng trú đông an toàn nhất hay sự vội vã của một hành trình về phương Nam trú rét. Nhưng cái tinh tế của hồn thơ Hữu Thỉnh lại ở từ “ bắt đầu”. Không phải là những cánh chim đang vội vã mà mới chỉ là bắt đầu. Nhận ra quy luật này chắc hẳn Hữu Thỉnh phải là người rất yêu cuộc sống nên mới có tâm hồn nhạy cảm, mới có thể nghe được, thấy được cái vỗ cánh bắt đầu của những cánh chim, cái cựa mình rất nhẹ của thời gian.
* Liên hệ mở rộng: Nhà thơ Xuân Diệu từng viết:
“ Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tan”
– Ấn tượng nhất trong bức tranh mùa thu chính là hình ảnh:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
– Đây là một hình ảnh thơ sang tạo, một liên tưởng độc đáo, chỉ bằng mười con chữ gói gọn trong hai câu thơ mà người đọc có thể hình dung ra một bàu trời trong veo, những đám mây trắng lững lờ trôi, nắng mùa hạ vẫn còn vương lưng trời, hắt ánh vàng lên đám mây mỏng nhẹ. Thiên nhiên hai mùa như đang trộn lẫn, đang giao hòa trong áng mây bay.
– Động từ “vắt” thể hiện thật tài tình tạo ra nhiều lien tưởng giúp người đọc có thể hình dung những đám mây nhẹ trôi bồng bềnh uốn lượn như dải lụa mà ai đó tung lên trời. Cũng có thể gợi cho ta nghĩ đến cây cầu dải yếm hay cầu Ô Thước trong truyện “ Ngưu Lang, Chức Nữ” bắc trên dải ngân hà… Biết bao liên tưởng thú vị được gợi ra từ hình ảnh đám mây đã trở thành nhịp cầu nối liền hai dải thời gian, nối liền hai bờ không gian và thời gian giữa hạ và thu. Bước qua dải cầu mây mềm mại ấy tức là ta đã bước qua mùa hạ sôi động để sang với mùa thu dịu dàng, quyến rũ.
* Liên hệ mở rộng: Trong thơ ca Việt Nam, không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
(Nguyễn Khuyến – “Thu điếu”)
Hay: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
(Huy Cận – “Tràng giang”)
=> Cài tài của Hữu Thỉnh là ông đã lấy cái thời gian siêu hình của sự vật để miêu tả thời gian định tính của vũ trụ. Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được miêu tả bằng nghệ thuật nhân hóa, thổi hồn vào sự vật làm cho bức tranh thu trở nên hữu tình và thi vị.
Khổ 3. Những suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ:
* Chuyển ý: Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đẵ vơi dần cơn mưa
– Bức tranh phong cảnh lúc giao mùa được tác giả gợi tả bằng những hình ảnh quen thuộc. Bằng giác quan nhạy cảm, tinh tế Hữu Thỉnh đã nghe thấy, nhận thấy và đong đếm được những nắng, những mưa, những âm vang của cuộc sống.
– Hàng loạt những phó từ chỉ mức độ giảm dần như vẫn còn “vơi dần, bớt” để nói về trạng thái đặc điểm của thiên nhiên nắng, mưa, sấm khi sang thu.
– Với một hồn thơ bay bổng, một trái tim nhạy cảm, một giác quan tinh tế Hữu Thỉnh đã cảm nhận trên bầu trời thu nắng hạ vẫn còn nhưng không còn gay gắt, chói chang, đổ lửa như nắng mùa hạ. Mưa mùa hạ vẫn còn nhưng sang thu mật độ thưa hơn, nhẹ hơn, nó không dữ dội như những cơn mưa mùa hạ nữa. Chớm thu sấm màu hạ còn theo bước chân mùa hạ đi vào mùa thu nhưng âm vang giảm hẳn. Sang thu con người, vạn vật dường như đã quen dần với tiếng sấm mùa hạ nên không còn bất ngờ và kinh hãi nữa.
– Hai câu thơ cuối bài lắng xuống với nhiều triết lí sâu xa:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứngtuổi”.
Hai câu thơ vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang nghĩa tượng trưng:
+ Tả thực: – Sấm là hiện tượng bất thường của tự nhiên
– Hàng cây đứng tuổi là hàng cây cổ thụ sống lâu năm, hang cây ấy đã trải qua nhiều tác động của tự nhiên trở nên vững vàng, mạnh mẽ hơn.
+ Đồng thời câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa:
Sấm và hang cây đứng tuổi là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa sâu xa:
+ “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người đứng tuổi từng trải. Họ trở lên vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh.
=> Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những thángngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn độngcủa cuộc đời.
=> Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.
3. Đánh giá
– Bằng biện pháp tu từ nhân hóa, các hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ, bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu,trong sáng nên thơ…ở vùng đông bằng Bắc Bộ để từ đó gửi gắm những suy nghĩ rất sâu sắc về con người và cuộc đời. Đọc “Sang thu”, ta nhận ra ở Hữu Thỉnh là tình yêu tha thiết với thiên nhiên, là một tâm hồn tinh thế và vô cùng nhạy cảm. Điều đó thật đáng để ta trân trọng.
C. Kết bài
Đã rất nhiều năm trôi qua nhưng đến nay bài thơ “ sang thu” vẫn còn nguyên giá trị. Những khổ thơ trên đã góp phần làm nên thành công ấy cho bài thơ. Bài thơ mang một chút buồn, dịu dàng và lặng lẽ, thiên nhiên và con người cùng một nhịp sang thu. Cảnh thu và tình thu đang lồng vào nhau, thắm thiết và lưu luyến bồi hồi, vừa trang nghiêm, vừa chững chạc. Một mùa thu thật đẹp, lặng lẽ và dịu dàng, gửi gắm vào đó là tình cảm của con người với quê hương, đất nước. Với những giá trị ấy Hữu Thỉnh cùng với “sang thu” sẽ sống mãi trong long bạn đọc hôm nay và mai sau.
Đề 2: Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu
A. Mở bài:
Mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân xưa. Mỗi người đều có cách cảm nhận, cách miêu tả rất riêng, mang đạm dấu ấn cá nhân của mình. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ về mùa thu của dân tộc một cách nhìn mới mẻ về thu. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn vào mùa thu. Những vần thơ của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vướng vấn trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng. Phong cách thơ của ông thể hiệ rõ nhất qua bài thơ “Sang thu” mà đặc biệt nhất là khổ đầu tiên trong bài.
“Bỗng nhận ra hương ổiPhả vào trong gió seSương chùng chình qua ngõHình như thu đã về.”
B. Thân bài
Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, ông sinh ra ở Vĩnh Phúc. Thế giới nghệ thuật trong thơ ông mang nhiều dấu ấn rất riêng, đó là dấu ấn của một tư duy nghệ thuật mạnh mẽ mà đa tài. Suốt cuộc đời nghệ thuật của mình, Hữu Thỉnh đã nỗ lực tìm kiếm không ngừng, đổi mới sáng tạo các tác phẩm của mình từ truyền thống sang hiện đại. Trong đó, “Sang thu” là tác phẩm thể hiện rõ nhất tinh thần thơ của ông. Bài thơ ra đời năm 1977, nằm trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” (1991). “Sang thu” là bức thông điệp giao mùakhi hạ qua thu tới, khoảnh khắc đó được diễn tả bằng sự rung cảm tinh tế, sự trải nghiện sâu sác của nhà thơ. Đặc biệt, khổ thơ đầu bài chính là những cảm xúc khơi nguồn cảm hứng sáng tác của tác giả để viết lên những dòng thơ đầy xúc cảm về mùa thu.
Nếu như Xuân Diệu cảm nhận mùa thu bắt đầu với tín hiệu đầu thu là sắc “mơ phai” của lá được bàn tay tạo hóa “dệt” lên giữa muôn ngàn cây:
“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Thì với nhà thơ Hữu Thỉnh, mùa thu đến là lúc “hương ổi” ngọt ngào của vườn quê được “phả vào” trong làn gió thu se lạnh. Hương vị nồng nàn ấy là hương vị tuổi thơ mà chúng ta mang theo suốt cuộc đời:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Câu thơ mang hương vị ấm nồng chớm thu của một miền quê nhỏ. Không phải bất cứ tín hiệu nào mà lại là “hương ổi” đã khiến nhà thơ nhận ra mùa thu đến. Đó là mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng lan rộng khắp không gian, len lỏi chạm vòa khứu giác nhạy bén của nhà thơ. “Phả” là một động từ mang ý khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương thoang thoảng không dễ nhận ra, một mùi hương thoáng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến trái ổi vàng ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi. Cụm từ “bỗng nhận ra” bắt đầu bài thơ cho thấy sự bất ngờ đến với nhà thơ một cách bất chợt mà như đã chờ đợi từ lâu lắm.
Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Ở đây không chỉ có con người mà cả màn sương cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình cưa muốn rời chân. Tác giả đã sử dụng rất thành công từ láy tượng hình “chùng chình” gợi cho người đọc cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “Chùng chình” là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chỉ là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Mang theo một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. “Hình như” là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu, nó thể hiện sự phỏng đoán không chắc chắn về một nét thu mơ hồ vừa được phát hiện và cảm nhận. Ở đây, nhà tơ không chọn những hình ảnh quen thuộc mà chọn những chi tiết mới mẻ, bất ngờ để gợi tả mùa thu về. Những sự vật gần gũi như “hương ổi”, “sương” làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của “Sang thu”.
C. Kết bài
Đoạn thơ đầu diễn biến theo mạch cảm xúc tự nhiên của tác giả vào lúc sang thu. Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh trong đoạn đầu bài thơ “Sang thu”. Thể thơ ngũ ngôn thể hiện cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ lắng đọng mà độc đáo.
Đoạn thơ gợi cho ta bức tranh mùa thu nhẹ nhàng vào thời điểm giao mùa hà sang thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như mang tâm tình kín đáo, tình yêu với làng quê Việt Nam. Đoạn thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ.
Đề 3: Phân tích khổ cuối bài Sang thu của Hữu Thỉnh
A. Mở bài:
Giới thiệu đề tài mùa thu trong thi ca
Dẫn vào bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh: Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Chỉ với những câu thơ ngắn gọn, khổ cuối Sang thu đã thể hiện rất rõ tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất.
B. Thân bài
Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu. Và cảm nhận của ông khi tiết trời sang thu được thể hiện rõ nét nhất ở khổ thơ cuối:
Vẫn còn bao nhiêu nắng.
Đã vơi dần cơn mưa.
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Mở đầu Hữu Thỉnh cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người mình, tâm hồn mình. Bắt đầu là khứu giác: Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se. Cảm giác giao mùa được ông diễn tả bằng một hình ảnh bất ngờ đầy thi vị: Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu. Đây là hình ảnh đặc sắc miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Nhưng tiếp đó chính là cảm nhận của chính ông khi nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt đi cái nồng nàn, rực rỡ vốn có, kèm theo đó là những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng chình, hình như; dềnh dàng, vắt nửa mình… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống. Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay nhưng nét riêng của thời điểm giao mùa hạ – thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối bài:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời; hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải.
Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn mưa giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.
C. Kết bài
Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã góp thêm một nét thu mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam.
Đề 4: Cảm nhận khổ 2 bài thơ Sang thu của tác giả Hữu Thỉnh
A. Mở bài
Mùa thu đã bao lần đi vào thơ ca, nhạc họa, đã bao lần khiến trái tim người nghệ sĩ thổn thức. Đến với “Sang thu” của Hữu Thỉnh người ta phải thốt lên khi chưa bao giờ nhận ra cái đẹp lại hiện hữu gần đến vậy. “Nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu” ấy sau một lần được cảm thức cái không khí giao mùa trong ngày tháng đất nước hòa bình, ba miền trở về một mối đã sáng tác nên bài thơ “Sang thu”.
Tác phẩm ghi lại mạch cảm xúc từ bỡ ngỡ, băn khoăn khi phát hiện tín hiệu của mùa thu cho đến khi sắc thu thực sự đã ngập tràn trên vùng quê nhỏ. Khổ 2 bài thơ là bức tranh miêu tả chuyến biến tinh tế của đất trời lúc sang thu.
Sông được lúc dềnh dàngChim bắt đầu vội vãCó đám mây mùa hạVắt nửa mình sang thu.
B. Thân bài.
Khoảnh khắc giao mùa chắc là khoảnh khắc đẹp đã nhất của tự nhiên, nó gieo vào trong lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Bài thơ “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã thể hiện những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước những biến đổi của thiên nhiên ở thời khắc giao mùa từ hạ sang thu. Mùa thu đã về. Mùa thu mang theo hương quê và mang theo sương mờ ướt lạnh. Thu về? Từ hương ổi hay từ gió, hay từ sương? Hữu Thỉnh cũng hơi ngỡ ngàng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Bằng chính tài quan sát của mình, Hữu Thỉnh đã khắc hoạ thành công những bước đi nhỏ bé nhẹ nhàng, mong manh nhỏ nhẹ của mùa thu. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ nhưng khiến ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một hồn thơ mang nặng tình yêu với thiên nhiên và cuộc sống.
Sau phút giao mùa nhẹ nhàng, những dấu hiệu bắt đầu mùa thu đã trở nên rõ ràng hơn, nhanh hơn. Tác giả cảm nhận mùa thu bằng cả tâm hồn của mình. Thu về, thu lại về trên quê hương, trên những con đường, bờ đê và trên cả những con sông, cánh chim trời.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã.
Cảm xúc thu sang của tác giả lan tỏa trong không gian rộng hơn, nhiều cung bậc cảm xúc hơn. Từ không gian nhỏ bé như con ngõ nhỏ đã lan tỏa ra tới bầu trời, một không gian bao la rộng lớn không gì có thể đo đếm được. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả đã tạo dựng nên linh hồn cho cảnh vật. Với từ “được lúc” dòng sông như được dịp được thời, như đang lắng lại, trầm xuống, lững lờ suy tư. Dòng sông êm đềm, nhẹ nhàng trôi sau những cơn mưa mùa hạ như trút nước. Tiết trời sang thu đã khiến cho dòng sông trở nên nhẹ nhàng và lắng lại. Nó lại “dềnh dàng”, chậm chạp, khoan thai chảy trong không gian bức tranh tuyệt đẹp của mùa thu. Dòng sông cũng dùng dằng và ngập ngừng níu kéo nhịp thở của mùa hạ. Sông giống như tâm trạng của con người, dường như đang sống “chậm” lại, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời.
Trái ngược với “dềnh dàng” của dòng sông, những cánh chim di trú lại bắt đầu ‘vội vã” đầy lo lắng trước khoảnh khắc giao mùa. Hẳn là đàn chim đã bắt đầu cảm nhận được chút se lạnh của tiết trời. Tác giả rất tinh tế khi sử dụng từ “bắt đầu” chứ không phải là đang vội vã, bởi thu mới chạm ngõ bằng hơi sương lạnh lẽo, còn đủ thời gian cho những cánh chim làm tổ, tha mồi, chuẩn bị đón một mùa đông lạnh lẽo kéo dài. Với nghệ thuật tương phản đặc sắc, Hữu Thỉnh đã gợi lên bức tranh thu đầy sinh động: nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng không kém phần hối hả, vội vã. Phải có tình yêu thiên nhiên và những cảm nhận sâu sắc, nhà thơ mới thấy được những biến chuyển của vạn vật trong khúc giao mùa như vậy.Thông qua bức tranh ấy, ông muốn gợi lên sự chuyển mình của đất nước ta. Một đất nước vừa trải qua mưa bom lửa đạn, giành được độc lập và đang bắt đầu xây dựng đất nước trong không khí vui tươi, rộn ràng.
Với động từ “vắt”, bầu trời lúc giao mùa bỗng trong cảm nhận của thi sĩ trở nên đặc biệt hơn:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Hành động được nhân hóa này mang ý diễn tả sự vận động của thời gian. Không gian thơ cũng như trở nên rộng mở hơn, bao la hơn với hình ảnh đầy chất tạo hình này. Đám mây bé nhỏ dường như trải dài hơn, trôi lững lờ trong bầu trời xanh ngắt, cao rộng. Dường như nó vẫn còn vương vấn ánh nắng ấm áp của mùa hạ nên chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Nó đã tạo nên một lằn ranh giới mỏng manh, hư ảo. Có lẽ, thực tế sẽ không thể nào có áng mây bé nhỏ nào như thế. Đó chỉ là sự liên tưởng đầy thú vị của thi sĩ. Tất cả góp phần tạo nên một thời khắc giao mùa đầy chất thơ, tinh tế và nhạy cảm, độc đáo nhưng bâng khuâng trong không gian êm dịu của mùa thu. Dòng sông, đám mây, cánh chim đều được nhân hoá rõ nét khiến cho bức tranh thu hữu tình của Hữu Thỉnh trở nên thi vị hơn. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết và trí tưởng tượng bay bổng độc đáo của nhà thơ.
Với thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu kết hợp với hình ảnh nhân hóa đặc sắc, Hữu Thỉnh đã đem đến cho thơ ca một mùa thu thật đẹp, thật mộc mạc giản dị. Đọc đoạn thơ, ta cảm nhận được cảnh vật như trở nên vừa hư vừa thực, rất nên thơ và giàu sức tưởng tượng độc đáo. Nhà thơ Hữu Thỉnh hẳn phải là người có tâm hồn tinh tế cùng với tình yêu tha thiết với thiên nhiên và đất nước mới có thể sáng tạo nên những vần thơ đặc sắc này. Ngòi bút tài năng này đã khiến chúng ta không thể không cảm phục.
C. Kết bài
Sang thu là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm bao tình yêu mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta. Chúng ta hãy lắng lòng để hướng tới thiên nhiên, hướng tới quê nhà.
Đề 5: Phân tích hai khổ đầu bài thơ Sang thu
A. Mở bài
Không phải mùa xuân, cũng chả hạ hay đông, mà đó chính là mùa thu. Nhắc đến mùa thu chúng ta nghĩ ngay đến một mùa bình lặng có nét buồn phảng phất. Mùa của gió thoảng quá đủ làm ta rùng mình mà không lạnh buốt, một mùa bình an phảng chút tương tư. Có lẽ chính vì sự tuyệt vời mà mùa thu mang lại nên rất nhiều thi sĩ đã làm thơ về mùa thu. Nhưng có lẽ, bức tranh mùa thu gần gũi nhưng lại tinh tế nhất chính là của nhà thơ Hữu Thỉnh với bài thơ sang thu.
Hai khổ đầu bài sang thu càng thể hiện rõ hơn vẻ đẹp mùa thu được tô vẽ qua từng ý thơ nhẹ nhàng, đời thường nhưng rất đỗi tinh tế. Một mùa thu của Hữu Thỉnh có chút lưu luyến, bâng khuâng nhưng đầy nhựa sống.
Hai khổ thơ đầu Sang thu tuy ngắn gọn, nhưng đã diễn tả thành công sự chuyển mình của thiên nhiên trong khoảnh khắc chuyển giao từ cuối hạ sang thu. Qua đó, cho chúng ta thấy rõ bức tranh mùa thu trong trẻo, dịu dàng.
B. Thân bài
Ngay mở đầu khổ thơ thứ nhất, tác giả đã khéo léo sử dụng mùi hương để viết về mùa thu:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Không phải là mùi hương xa hoa đài các nào ấy, mà đó là hương ổi, một hương thơm bình dị mang đậm chất quê nhà mộc mạc. Gió đã đưa hưởng ổi thổi qua đâu đây khiến nhà thơ như chợt tỉnh, à mùa thu đã đến rồi. Hương ổi xen trong gió mang mùa thu tới khiến cho thi sĩ cũng ngẩn người.
Một hương thơm bình dị nhưng lại đánh thức của một mùa lớn lao. Trong số chúng ta, có lẽ không ai không một lần nếm qua vị ổi, vị ngòn giòn pha chút chua chua đầu lưỡi. Cái dư vị này rất thơm, rất dễ chịu và êm ái. Và trong thơ Hữu Thỉnh nó đã xuất hiện để mang mùa thu tới. Nhận thấy trong gió có hương ổi vậy là đã biết mùa thu đang về.
Bên cạnh hương ổi ấy, tác giả cũng khéo léo nhắc đến đặc điểm báo hiệu mùa thu tới đó là gió se. Những cơn gió mùa thu thường dịu dàng chỉ đủ làm cho bạn rùng mình, khoác một chiếc áo mỏng nhẹ nhàng mà thôi. Nó khác xa với cái lạnh giá của mùa đông và cái lạnh tê tê, buốt ở đầu tay vào mùa xuân với những cơn mưa xuân rả rích suốt ngày. Mùa thu gần như không có mưa mà bầu trời thường bình yên, mây xám, gió se lạnh và mặt hồ tĩnh lặng. Mùa thu khến người ta cảm thấy buồn buồn trong lòng kiểu như “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.” Nhưng mùa thu mang nét đẹp nhẹ nhàng trữ tình, mùa thu khiến lòng bình yên, chùng xuống, khiến ta sống chậm cảm nhận sự sống. Có lẽ vậy mà tác giả mới có thể cảm nhận được hương ổi thoảng qua những cơn gió se đầu mùa. Một khung cảnh mùa thu làng quê thật đẹp và bình yên.
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Đặc biệt ở hai câu thơ trên, ta cảm nhận được những giọt sương đêm còn đọng lại, mềm mại và vương trên ngõ nhỏ. Nếu bạn là người tinh tế hẳn bạn sẽ thấy, sáng mùa thu thường đọng lại sương đêm, những hạt sương long lanh giăng đầy khắp lối từ vườn hoa đến cổng nhà. Mùa thu về hcinsh là mang theo những làn gió nhẹ và những giọt sương mai như thế, rất đặc trưng.
Đặc biệt tác giả sử dụng động từ ‘chùng mình” rất lạ và nghe rất nhẹ nhàng, mềm mại. Cảm giác như sương dày đặc đến nỗi chùng xuống, thả mình xuống ngỏ nhỏ miền quê. Tất cả những điều đó, từ hương ổi đến gió, đến sương đã mang mùa thu về. Và Hữu Thỉnh như giật mình, ôi mùa thu đã về.
Khi cái bỡ ngỡ về mùa thu đã qua đi sẽ nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Nếu ở trên là mùa thu về nhẹ nhàng với hương sắc thì sang đến khổ hai, mùa thu là sự chuyển động vội vàng, mãnh liệt. Dòng sông quê nay bỗng dềnh dàng như đón mùa thu về. Dềnh dàng chính là con nước lên, sông như đầy hơn, không khô hạn như mùa hạ. Con sông quê mang thêm nhiều sự sống hơn, nước sống dềnh dàng như muốn tràn ra mang theo bao nhiêu sự sống bên dưới. Ngay cả cánh chim cũng bắt dầu vội vã, hối hả.
Mùa thu ở khổ hai mở đầu cho sự hối hả, mới mẻ và xôn xao. Sự mới mẻ này đã xóa đi cái nóng của mùa hè, và bù đắp vào đó là một mùa mát mẻ, se lạnh có chút ẩm ướt của sương đêm. Có lẽ, mùa thu của Hữu Thỉnh đang thay áo, một chiếc áo mới dịu dàng hơn, êm ái hơn, mơ hồ hơn và cũng nhiều sức sống không khác gì mùa xuân.
Nếu Nguyễn Khuyến tả mùa thu với khung cảnh: “Xanh ngắt mấy tầng cao” thì Hữu Thỉnh lại tả mùa thu với chút vấn vương mùa hạ vô cùng độc đáo:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Đây mới chỉ là sự chuyển mình của mùa, có lẽ là giai đoạn đầu mùa thu. Vì vậy mà nó còn vương vấn chút mùa hạ với đám mây xanh. Với cách dùng từ “vắt nửa mình” cho thấy sự độc đáo, sự giao thoa giữa hai mùa. Cảnh vật được pha trộn lẫn nhau như bức tranh màu sắc, pha giữa màu mùa hạ và mùa thu. Không gian cũng trở nên vô cùng độc đáo, mới lạ.
Chỉ với 4 câu thơ khổ thứ 2 tác giả đã vẽ lên bức tranh mùa thu đầy sống động, có nét chấm phá của mùa hạ mới mẻ và độc đáo. Mùa thu với bầu trời còn chút xanh ngắt mùa hạ, với cánh chim chao liệng đang mải miết bay và bên dưới là dòng sông thu êm đêm dềnh dàng nước. Một bức tranh với những cảnh vật đặc trưng cho mùa thu, rất bình dị, đậm chất làng quê thanh bình.
Trong thơ Nguyễn khuyến, mùa thu cũng có sông nước có lá vàng, có bầu trời nhưng cách tả rất khác. Mùa thu Nguyễn Khuyến có cảm giác buồn, cô đơn, lẻ loi và không sống động như mùa thu của Hữu Thỉnh:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
(Trích Thu Điếu – Nguyễn Khuyến)
Cũng lấy dòng sông để tả mùa thu nhưng mùa thu của hữu thỉnh đầy đặn, dịu dàng, mộng mơ và bình yên. Còn mùa thu trong mắt Nguyễn Khuyến là không gian tĩnh lặng, là ao thu lạnh lẽo với dòng nước trong veo, là lá vàng rơi, không gian tĩnh đến nỗi nghe được cả tiếng lá rơi.
Có lẽ, Hữu Thỉnh đã vẽ lên một mùa thu với cảnh sắc vừa bình yên lại vừa sống động, có sự sống, có hương thơm, có tiếng gió, có sự đầy đặn từ sương đêm cho đến dòng sông, thậm chí còn có sự vội vàng, hối hả không kém gì mùa xuân trong Vội Vàng của Xuân Diệu – từng giây phút sống phải sống sao cho trọn vẹn vì mùa đi qua rất nhanh cũng giống như những giây phút cuộc đời trôi qua rất nhanh.
C. Kết bài
Sang thu của Hữu Thỉnh làm ta chợt nhận ra hương ổi, làn gió, màn sương thu hay dòng sông, đám mây… những sự việc gần gũi, thân quen làm nên đường nét rất riêng của mùa thu Việt Nam. Không chỉ riêng nhà thơ, mà mỗi chúng ta đều có thể cảm nhận được mùa thu ấy – một mùa thu êm ả, lắng đọng, ấm áp.
Bên cạnh sự độc đáo về mặt nội dung, ta không thể bỏ qua nét hấp dẫn của các yếu tố nghệ thuật. Thể thơ năm chữ ngắn gọn cùng biện pháp tu từ nhân hóa, từ láy giàu sức gợi hình đã góp phần miêu tả sự thay đổi của vạn vật khi chớm thu. Em thật sự yêu thích hai khổ thơ này. Hữu Thỉnh đã đem đến cho thơ ca một mùa thu thật đẹp, thật mộc mạc giản dị. Mùa thu ấy là những rung cảm tinh tế và tài hoa, được cảm nhận qua lăng kính của người nghệ sĩ tha thiết yêu đời, yêu thiên nhiên vạn vật và yêu cuộc sống.
Đề 6: Cảm nhận 2 khổ cuối Sang thu của Hữu Thỉnh
A. Mở bài
Khoảnh khắc giao mùa chắc là khoảnh khắc đẹp đã nhất của tự nhiên, nó gieo vào trong lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Bài thơ thể hiện rõ nét nhất chính là bài thơ “Sang Thu” của Hữu Thỉnh. Bài thơ đã thể hiện những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước những biến đổi của thiên nhiên ở thời khắc giao mùa từ hạ sang thu. 2 khổ cuối bài thơ “Sang thu” thể hiện sâu sắc tình cảm nhẹ nhàng mà tinh tế của nhà thơ trước thiên nhiên và cuộc đời.
B. Thân bài
Với những câu từ đơn giản, mộc mạc, hai khổ cuối Sang Thu của Hữu Thỉnh đã mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp và sinh động.
Từ sự cảm nhận ở khổ một vô hình, qua khổ hai là một sự cảm nhận hữu hình. Bức tranh thu được miêu tả ở tầm xa hơn, cao hơn, từ mặt đất hướng lên bầu trời:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Cụm từ “dềnh dàng” là thống thả, từ từ, như đang lắng lại, trầm xuống. Đối lập với cảnh ấy là những đàn chim bắt đầu “vội vã” nhưng chỉ là cái “vội vã” mới chớm, mới bắt đầu: Những đàn chim đua nhau chạy đi tìm nơi trú ẩn ở phương Nam để tránh rét của mùa thu sắp tới. Không như dòng sông chảy chậm rãi kia. Từ ngữ đối lập “dềnh dàng” với “thong thả” cho ta hiểu được tất cả hiện thực của mùa thu.
Cảm giác mùa lại được nhà thơ Hữu Thỉnh diễn tả đầy thú vị:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Dù đã sang mùa thu nhưng đám mây kia vẫn mang một sự luyến tiếc. Nghệ thuật nhân hoá, thể hiện sự níu kéo, cho thời gian hãy trôi chậm lại, khoan hãy bước sang mùa thu. Hình ảnh này có tính tạo hình trong không gian nhưng có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Mây là thực, ranh giới múa chỉ là ảo, đó là sản phẩm của trí tưởng tượng rất nên thơ và độc đáo của thi nhân.
Đến khổ cuối ta chợt nhận ra vẻ đẹp của bài thơ chính là vẻ đẹp của sự chuyển mùa, vẻ đẹp của tâm hồn con người gần gũi, giao cảm với thiên nhiên để lắng nghe và dự cảm:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Sang thu rồi, những tia nắng cuối hạ vẫn còn nồng, vẫn còn sáng nhưng đã phai nhạt dần, trong những ngày giao mùa này, trời cũng đã bớt đi nhiều cơn mưa ào ạt. “Nắng mưa”, hai hình ảnh đầy tương phản, tia nắng kia đang là hiện tại nhưng mưa lại là quá khứ. Chính hai hình ảnh đầy tương phản này, đã một lần nữa thấy được sự ngập ngừng đầy chủ động của vạn vật trước thời gian.
Lúc sang thu, tiếng sấm đã không làm cho những hàng cây kia bất ngờ, hay giật mình. “Hàng cây đứng tuổi”, gợi cho ta về hình tượng con người đã trải qua bao sóng gió, đã là một con người từng trải, “sấm” chính là những tác nhân ngoại cảnh bất ngờ:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Khi một người từng trải bao nhiêu khó nhọc của cuộc sống, sẽ không lấy động bởi những tác động ngoại cảnh đầy bất ngờ. Hữu Thỉnh có lần tâm sự với những hình ảnh có giá trị tả thực về phong cảnh, thiên nhiên: “khi con người ta đã từng trải thì sẽ vững vàng hơn, trước những tác động của ngoại cảnh, bất ngờ”.
C. Kết bài
2 khổ cuối bài thơ “Sang thu” không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương, mà còn làm sâu sắc thêm tình cảm quê hương trong trái tim của mọi người. Bài thơ chính là một bức tranh quê bình dị để mọi người có thể nhìn thấy hình ảnh quê hương, hình ảnh tâm hồn mình. Miêu tả mùa thu bằng bước chuyển của vạn vật. Hữu Thỉnh đã tạo nên một cách nhìn riêng, một cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng, thoát khỏi những ước lệ, khẳng định vị trí của mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp