Pháp luật có mấy thuộc tính cơ bản? [Cập nhật 2024]

1. Pháp luật là gì?

Pháp luật là hệ thống các quy tắc Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước xác lập (hoặc thừa nhận) có tính quy phạm phổ biến, được xác định chặt chẽ về mặt hình thức và có tính ràng buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong nhà nước và được nhà nước bảo đảm để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

2. Nguồn gốc của pháp luật

Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Pháp luật được hình thành theo ba cách chính: Nhà nước thừa nhận tập quán có từ trước phù hợp với lợi ích của mình và quy định trong luật; Nhà nước công nhận các quyết định trước đây về các vụ việc cụ thể của cơ quan tư pháp hoặc hành chính cấp trên để làm mẫu cho các cơ quan cấp dưới tương ứng giải quyết các vụ việc tương tự trong tương lai; Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh do nhu cầu quản lý và duy trì trật tự xã hội. Riêng với cách thứ ba này, một hình thức pháp lý thứ ba đã ra đời, đó là văn bản quy phạm pháp luật.

3 Vai trò của pháp luật

Hiểu pháp luật là gì chưa đủ mà phải hiểu rõ vai trò của pháp luật. Theo đó, pháp luật là công cụ quan trọng, chủ yếu của nhà nước trong quản lý trật tự xã hội. Vì vậy, nói đến vai trò của pháp luật là phải nói đến vai trò của nhà nước và xã hội.

Đối với nhà nước:

– Pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của nhà nước, bởi bất kỳ chính quyền nào được tạo ra đều phải đảm bảo tính hợp pháp, còn pháp luật chính là công cụ để đảm bảo tính hợp pháp này. – Pháp luật là công cụ kiểm soát quyền lực của Nhà nước, được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước; quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân; xử phạt vi phạm..

– Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Theo đó, với những đặc điểm như tính quy phạm chung, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế…, pháp luật có khả năng được phổ biến, phổ biến pháp luật nhanh chóng, đồng bộ, hiệu quả và rộng rãi trong cả nước. Như vậy, Nhà nước hoạch định chính sách đối nội, đối ngoại phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước….

Đối với xã hội: Ngày nay, pháp luật không chỉ được thừa nhận là của nhà nước, là công cụ của nhà nước để tổ chức và quản lý xã hội, mà ngược lại, pháp luật đã trở thành lợi ích chung của toàn xã hội, một loại quy tắc xử sự đặc biệt quan trọng trong đời sống công cộng, không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Pháp luật có vai trò giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội. Bởi có thể thấy, trong xã hội việc xảy ra mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi, khi mâu thuẫn phát sinh thì cần phải có cơ sở để các bên dựa vào đó giải quyết mâu thuẫn của mình. Và khi đó, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất.

4. Quy định về thuộc tính cơ bản của luật

Các thuộc tính của pháp luật là những đặc điểm vốn có và không thể tách rời của pháp luật. Thông qua các thuộc tính của pháp luật, có thể phân biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Định luật có bốn thuộc tính cơ bản:

Thuộc tính thứ nhất: pháp luật có sức mạnh của nhà nước Quyền lực nhà nước là thuộc tính riêng của pháp luật mà không một quy phạm nào khác có được. Để có thể thực hiện việc tổ chức và quản lý xã hội, nhà nước cần phải có pháp luật, nhằm buộc mọi người phải tuân theo. Các quy định của pháp luật có thể do nhà nước đặt ra, cũng có thể được tạo ra từ sự thừa nhận của nhà nước đối với các quy tắc xử sự sẵn có của xã hội (đạo đức, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo,…) Nói cách khác, pháp luật là sự thể hiện ý chí của nhà nước. Thông qua pháp luật, nhà nước cho phép chủ thể được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, không được làm gì và có thể buộc họ phải làm, làm như thế nào. . . Mặt khác, với thuộc tính là quyền lực nhà nước, pháp luật có thể có các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, buộc mọi người phải tuân theo các quy định của pháp luật, nếu không sẽ bị trừng phạt, nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống.

Ví dụ: Luật an toàn giao thông đường bộ do nhà nước ban hành và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước (đại diện là cảnh sát giao thông, cảnh sát cơ động,…..). Người vi phạm luật giao thông đường bộ sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật.

Thuộc tính thứ hai: pháp luật có tính quy phạm phổ biến Pháp luật được tạo ra bởi hệ thống các quy phạm pháp luật, các quy phạm là tế bào của pháp luật, là khuôn mẫu, khuôn mẫu hành vi chung. Trong xã hội, cách ứng xử của mọi người rất khác nhau, nhưng trong những điều kiện nhất định vẫn có thể đưa ra cách ứng xử chung phù hợp với số đông. Cũng như quy phạm pháp luật, các quy phạm xã hội khác đều có quy tắc xử sự chung, nhưng khác với quy phạm xã hội, pháp luật có tính quy phạm chung. Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ, việc áp dụng các tiêu chuẩn này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, hoàn thiện hoặc sửa đổi bằng quy định khác hoặc hết thời hiệu áp dụng quy định. Tính quy phạm phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của Nhà nước được “làm thành luật”. Theo các quốc gia khác nhau, ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội mang bản chất chủ quan của một nhóm người hoặc đáp ứng nguyện vọng, mong muốn của đại bộ phận dân cư của quốc gia đó.

Ví dụ: Luật giao thông đường bộ được áp dụng đối với mọi công dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, đối với bất kỳ người nào không phân biệt tuổi tác, giới tính, tôn giáo, dân tộc,…. và được áp dụng nhiều lần.

Thuộc tính thứ ba: Luật hệ thống Ngay cả chính khái niệm pháp luật cũng là một hệ thống các quy tắc ứng xử chung, hoặc các chuẩn mực, hoặc các nguyên tắc hoặc khái niệm pháp lý. . . Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách tác động trực tiếp đến hành vi của các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội này, nhưng các quy định này không tồn tại biệt lập mà giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó và thống nhất với nhau, tạo nên một tổng thể hoàn chỉnh.

Ví dụ: Luật Giao thông đường bộ; Nghị định 100/2019/NĐ-CP

Thuộc tính thứ tư: Định nghĩa chính thức Chuẩn mực có thể hiểu đơn giản là khuôn mẫu, chuẩn mực. Các quy định của pháp luật được coi là chuẩn mực trong xã hội và chúng được biết đến và sử dụng vô cùng phổ biến. Từ đó, pháp luật hướng dẫn nhận thức và hành vi của các chủ thể trong xã hội. Khi rơi vào một tình huống nhất định, căn cứ vào tính chất quy phạm của pháp luật, các chủ thể sẽ được định hướng hành vi của mình nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật. Phạm vi tác động của pháp luật rất rộng, nó là khuôn mẫu hành vi của con người, cá nhân, tổ chức trong một quốc gia và được vận dụng trong cuộc sống hàng ngày; hay được thể hiện trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Đây là lý do tại sao luật mới là phổ quát.

Ví dụ, Đạo luật An toàn Đường bộ bao gồm các văn bản pháp luật. Trong đó sẽ quy định cụ thể về các trường hợp cũng như mức phạt khi có hành vi vi phạm như: Điều 60 quy định về độ tuổi của người điều khiển xe mô tô: Người đủ 16 tuổi trở lên được điều khiển xe mô tô có dung tích động cơ dưới 50cc. Người đủ 18 tuổi trở lên được đi xe gắn máy có dung tích động cơ từ 50cc trở lên