Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa

1. Tổng quan về hàng hóa và sản xuất hàng hóa.

Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định của con người và được đưa vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã trải qua hai loại hình tổ chức kinh tế là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm do lao động sản xuất ra nhằm thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất hàng hóa là sản xuất sản phẩm để bán. Nói cách khác, sản xuất thị trường là kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đó mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán.

Nền sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt cơ bản trong lịch sử phát triển của loài người. Sản xuất hàng hóa xóa bỏ kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.

Hàng hóa có thể tồn tại dưới dạng vật chất hoặc phi vật thể. Từ khái niệm này, chúng ta có thể rút ra kết luận rằng một vật để trở thành hàng hóa phải thỏa mãn 3 yếu tố:

Hàng hóa là sản phẩm của lao động

Hàng hóa có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người

– Bằng trao đổi, mua bán

Hàng hóa có thể được phân thành nhiều loại như:

– Hàng đặc biệt

– Hàng hóa nói chung

– Hàng thứ cấp

– Hàng hóa vật chất

– Tài sản vô hình

– Hàng hóa công cộng

– Sở hữu tư nhân…

2. Hai thuộc tính của hàng hóa là gì?

2.1 Giá trị sử dụng

Giá trị sử dụng là tính hữu dụng của hàng hoá có thể thoả mãn những nhu cầu nhất định của con người. (có thể là nhu cầu vật chất hoặc tinh thần, nhu cầu cá nhân, nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất…). Về giá trị sử dụng, hàng hóa có các đặc điểm sau:

– Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá quyết định

Hàng hóa không nhất thiết phải có giá trị sử dụng một lần. Khi khoa học công nghệ phát triển, con người phát hiện ra nhiều tính chất mới của hàng hóa và sử dụng chúng vào nhiều mục đích khác nhau.

– Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc mọi hình thức tổ chức sản xuất.

– Giá trị sử dụng không dành cho bản thân người sản xuất hàng hóa mà dành cho người tiêu dùng hàng hóa (xã hội). Người mua có quyền sở hữu và sử dụng hàng hóa vào mục đích riêng của mình. Nói cách khác, sản phẩm, hàng hóa đáp ứng nhu cầu của xã hội.

2.2 Giá trị hàng hóa

Đầu tiên, để bạn đọc hiểu rõ hơn về khái niệm này, chúng ta sẽ xét một ví dụ đơn giản như sau:

Giả sử một con gà đổi được 10 kg táo. Tức là gà và táo mang giá trị trao đổi. Trong trường hợp này, hai câu hỏi phát sinh:

Thứ nhất: tại sao gà và táo là hai loại hàng hóa khác nhau, có giá trị sử dụng khác nhau mà có thể trao đổi được?

Thứ hai: Tại sao chúng ta giao dịch ở một tỷ lệ nhất định 1:10

Cụ thể trong ví dụ này, chi phí lao động của người nông dân nuôi gà sẽ bằng với chi phí lao động của người trồng táo. Nói cách khác, thời gian lao động xã hội cần thiết để nuôi một con gà sẽ bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để trồng 10 kg táo => 1 con gà bằng 10 kg táo. => Giá trị thị trường là lao động xã hội của người sản xuất trên thị trường kết tinh bên trong hàng hóa. Giá trị là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra bên ngoài bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi với nhau. Giá trị của hàng hoá có những đặc trưng cơ bản sau:

Thể hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa

Một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa

3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này tồn tại đồng thời trong một sản phẩm, hàng hóa. Phải có đủ hai thuộc tính này thì sản phẩm, vật phẩm đó mới được gọi là hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì sản phẩm hoặc vật phẩm đó không được coi là hàng hóa.

Mặt mâu thuẫn: Người sản xuất làm ra hàng hóa để bán, mục đích của nó là giá trị (tức là lợi nhuận) chứ không phải giá trị sử dụng. Trong tay người bán có giá trị sử dụng, nhưng điều quan trọng là giá trị của hàng hóa. Ngược lại, đối với người mua, họ thực sự cần giá trị sử dụng. Nhưng muốn có giá trị sử dụng thì trước hết chúng phải thực hiện được giá trị của hàng hóa rồi mới chi phối được giá trị sử dụng. Vì vậy, mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này là quá trình hiện thực hóa giá trị sử dụng và giá trị thị trường là hai quá trình khác nhau về thời gian và không gian. Giá trị sử dụng được thực hiện trước (trên thị trường), giá trị sử dụng được thực hiện sau (trong tiêu dùng). Nếu giá trị hàng hoá không được thực hiện sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất.

Tóm lại, giá trị sử dụng và giá trị thị trường thống nhất và mâu thuẫn với nhau.

4. Phân tích những điều kiện ra đời và tồn tại của nền sản xuất thị trường.

Nền sản xuất thị trường chỉ tồn tại khi thỏa mãn hai điều kiện: có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.

4.1 Phân công lao động xã hội

Phân công lao động xã hội là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội là sự phân công lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa lao động, từ đó dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất.

Cơ sở của sự phân công lao động xã hội là: dựa vào lợi thế về tự nhiên, kỹ thuật, khả năng và sức lực của từng người, từng vùng; theo đặc điểm, lợi thế xã hội như phong tục, tập quán, nơi ở, v.v. của từng vùng. Vai trò của phân công lao động là làm cho trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi có phân công lao động xã hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất ra một hoặc một số sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều sản phẩm dẫn đến họ để trao đổi sản phẩm với nhau. Hơn nữa, phân công lao động xã hội còn làm tăng năng suất lao động xã hội, do đó sản phẩm trao đổi thặng dư ngày càng nhiều.

Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại cần có điều kiện thứ hai.

4.2 Sự phân biệt kinh tế tương đối của người sản xuất

Bên cạnh điều kiện cần là phân công lao động xã hội, còn phải có điều kiện đủ, đó là giữa những người sản xuất phải có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế. Sự tách biệt về kinh tế tương đối có nghĩa là những người sản xuất trở thành những thực thể có sự độc lập nhất định với nhau. Vì vậy, sản phẩm sản xuất ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của các chủ thể kinh tế, những người muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa.

Có ba cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quyết định, còn trong điều kiện sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách biệt về tài sản và quyền sử dụng trên phương tiện quy định. Chế tạo.

Trong chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tư liệu sản xuất thuộc về mỗi cá nhân và do đó, sản xuất thuộc sở hữu của họ. Nói chính xác hơn là sản xuất hàng hóa ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự tách biệt này là do quan hệ sở hữu khác nhau của tư liệu sản xuất, mà trước đây là sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất, đã đồng nhất chủ sở hữu tư liệu sản xuất với chủ sở hữu sản phẩm vận động. Như vậy, chính những quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất trở nên độc lập và đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, do đó giữa sản xuất và tiêu dùng họ phụ thuộc lẫn nhau. Trong điều kiện này, nếu người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác thì phải mua bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hoá.

Cơ sở thứ ba là sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư liệu sản xuất. Sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về sở hữu mà còn ở quyền sử dụng những số lượng khác nhau tư liệu sản xuất của cùng một chủ sở hữu. Khi tồn tại sự tách biệt về kinh tế giữa các tác nhân sản xuất trong điều kiện có phân công lao động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa các tác nhân khác nhau phải đảm bảo lợi ích của họ. Điều này chỉ có thể đạt được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại là trao đổi hàng hoá, sản phẩm của lao động trở thành hàng hoá.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các nhà sản xuất dẫn đến việc sản phẩm được sở hữu hoặc kiểm soát bởi nhà sản xuất đó, và do đó có quyền bán sản phẩm đó. Hơn nữa, sự tách biệt đó còn làm cho các quan hệ trao đổi của chủ thể này nhất thiết mang hình thức trao đổi hàng hoá, bởi vì sự tách biệt tương đối về kinh tế làm cho những người sản xuất này có lợi, độc lập với nhau về mặt kinh tế. Vì vậy, sản phẩm sản xuất ra phải có hình thức trao đổi theo nguyên tắc ngang giá thì mới công bằng bình đẳng, bảo đảm lợi ích của các chủ thể này.

Trên đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nếu thiếu một trong hai điều kiện thì sẽ không có sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì vậy, sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, tức là nó chỉ tồn tại khi có cả hai điều kiện đó và biến mất khi một trong hai điều kiện đó mất đi.