Toàn dân đánh giặc, ba thứ quân là nòng cốt

Đương đầu với kẻ thù xâm lược có quân số đông, vũ khí, trang bị nhiều và hiện đại, Đảng ta, ngay từ những ngày đầu kháng chiến đã chủ trương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Một cách tổng quát, có thể thấy rằng: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương hợp thành quân đội nhân dân; dân quân, du kích, tự vệ là tổ chức vũ trang của quần chúng cách mạng. Ba thứ quân gắn bó chặt chẽ trong quá trình xây dựng, trưởng thành cũng như trong hoạt động chiến đấu và công tác.

Thực tế trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cho thấy, đẩy mạnh tác chiến của ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, phát triển chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy là một nội dung lớn, đồng thời là một thành công lớn của nền nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam.

Chiến tranh du kích là hình thức đấu tranh vũ trang của đông đảo quần chúng nhân dân. Hình thức đấu tranh này phát triển mạnh mẽ, sâu rộng và phong phú. Nó có tác dụng rất quan trọng trong việc bao vây, chia cắt địch ở mọi nơi; tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng; kiềm chế và phân tán cao độ binh lực địch, khiến chúng ngày càng sa lầy, không thể nào khắc phục được mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung. Chiến tranh du kích phát triển tạo nên thế chiến lược có lợi cho ta, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực. Bên cạnh chiến tranh du kích, để đánh bại lực lượng quân sự địch, phải xây dựng bộ đội chủ lực ngày càng mạnh và phải đưa chiến tranh du kích phát triển lên chiến tranh chính quy. Chỉ có chiến tranh chính quy mới bẻ gãy được các cuộc tiến công lớn của địch, mới tiêu diệt được những bộ phận lực lượng cơ động chiến lược của chúng, mới giải phóng được những vùng đất đai rộng lớn, tạo nên những bước ngoặt quyết định trong cục diện chiến tranh trước khi giành thắng lợi hoàn toàn.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, hàng triệu người gia nhập dân quân, du kích, tự vệ, tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương; hàng nghìn làng, xã chiến đấu được dựng lên trên cả ba miền đất nước. Phong trào chiến tranh du kích, vì vậy, phát triển rộng khắp và ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là vùng sau lưng địch. Để đánh bại các hoạt động càn quét, lấn chiếm của địch, đã có lúc, ta chủ trương “biến hậu phương địch thành tiền phương ta”, từ Liên khu V trở ra, hơn một phần ba đại đội chủ lực (103/299) được lệnh tiến sâu vào vùng sau lưng địch, phân tán hoạt động dưới hình thức đại đội độc lập, đội vũ trang tuyên truyền, đội xung phong công tác. Tác chiến du kích ngày càng mở rộng, buộc địch phải phân tán binh lực để ứng phó, và điều đó đã tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực ta tập trung lực lượng mở các chiến dịch chống càn, các đợt hoạt động, các chiến dịch tiến công và phản công. Đặc biệt, trong Thu Đông 1950, lần đầu tiên ta tập trung một bộ phận lực lượng lớn gấp chín lần quân địch, mở chiến dịch Biên Giới thắng lợi. Trong chiến dịch Hòa Bình, vừa đánh địch trên hướng chính diện, ta vừa táo bạo đưa hai trung đoàn vòng ra phía sau, mở mặt trận mới của bộ đội chủ lực sâu trong vùng địch kiểm soát, phát động và tạo điều kiện đẩy mạnh chiến tranh vùng sau lưng địch. Thực tế lịch sử đã chứng tỏ, quyết định này đã đưa đến thắng lợi to lớn của ta trong chiến dịch Hòa Bình – một chiến dịch đã làm cho người Pháp “hoàn toàn hết hy vọng đánh thắng ông Hồ Chí Minh” như tác giả M. Mác-li-a nhận xét trong cuốn Việt Nam – cuộc chiến tranh mười nghìn ngày. Bước vào cuộc Tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, để đập tan kế hoạch Navarre – một kế hoạch tổ chức lại và tăng cường khối cơ động chiến lược để từng bước thực hành phản công, giành lại quyền chủ động chiến trường của phía Pháp, Đảng ta chủ trương dùng một bộ phận chủ lực mở các cuộc tiến công trên những hướng địch sơ hở ở miền rừng núi; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích vùng sau lưng địch ở đồng bằng, phối hợp với các cuộc tiến công của bộ đội chủ lực. Lực lượng vũ trang ba thứ quân ta đã thực hiện xuất sắc phương hướng chiến lược trên đây, giành thắng lợi to lớn và toàn diện trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, những kinh nghiệm tích lũy được từ cuộc kháng chiến 9 năm về việc kết hợp hai phương thức tác chiến của lực lượng vũ trang ba thứ quân tiếp tục được vận dụng sáng tạo và phát triển lên một tầm cao mới. Trên chiến trường miền nam, từ sau Đồng Khởi năm 1960, phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị). Giờ đây, chiến tranh du kích tiến hành bằng cả hai lực lượng, chính trị và quân sự đã đưa hiệu lực tiến công của hình thức đấu tranh này không chỉ dừng lại ở việc tiêu hao, tiêu diệt và kìm chân lực lượng quân sự địch mà hơn thế, làm tan rã lớn quân địch, ghìm chặt một bộ phận quan trọng binh lực địch và bao vây, chia cắt chúng trong thế trận chiến tranh nhân dân trên khắp các chiến trường, các địa phương. Đó là thế trận bao vây, áp sát nhiều căn cứ quân sự – hậu cần – kỹ thuật của Mỹ-ngụy, nhiều vùng ven đô thị, nhiều tuyến giao thông huyết mạch… Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến, quân và dân các địa phương miền nam đã tổ chức các làng, xã chiến đấu hình thành những vành đai du kích chung quanh các căn cứ quân sự Mỹ. Thế trận chiến tranh nhân dân kiểu “vành đai”, là sự gắn bó chặt chẽ trên các phương diện như hệ thống tổ chức lãnh đạo, chỉ huy; hệ thống công sự, trận địa; phối hợp giữa các lực lượng, công tác bảo đảm hậu cần, thông tin, liên lạc… tạo nên sức mạnh và tính bền vững. Đó là biểu hiện độc đáo, ở trình độ cao, của thế trận chiến tranh nhân dân. Dựa trên thế trận này, quân dân các địa phương đã thực hành mạnh mẽ, liên tục, rộng khắp tư tưởng chiến lược tiến công; mở các trận đánh phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành, Vạn Tường, Bầu Bàng, Đất Cuốc trong năm 1965. Các vành đai du kích diệt giặc Mỹ đã buộc đế quốc Mỹ phải tập trung lực lượng, bảo đảm an toàn cho các căn cứ quân sự. Như nhà sử học Mỹ G. Kolko nhận xét, vào đầu năm 1966, “khoảng một nửa lực lượng trên bộ của Mỹ là để bảo vệ các khu căn cứ”. Ta hiểu vì sao, cũng như chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, suốt những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, giới tướng lĩnh Mỹ trên chiến trường miền nam luôn hối thúc tăng quân.

Đồng thời, trên miền bắc những năm chống chiến tranh phá hoại, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ phương thức tác chiến tại chỗ, rộng khắp của lực lượng phòng không, phòng thủ biển của cả ba thứ quân với phương thức tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng của lực lượng phòng không chủ lực. Bằng sự kết hợp đó, lực lượng phòng không, phòng thủ biển đã thực hiện nhiều cách đánh linh hoạt, độc đáo, đầy hiệu lực; giáng trả kịp thời và hiệu quả các hoạt động đánh phá của không quân, hải quân Mỹ, bắn rơi, bắn chìm, bắn cháy nhiều máy bay và tàu chiến hiện đại trên vùng trời, vùng biển miền bắc.

Trong sự kết hợp tác chiến của ba thứ quân, kết hợp hai phương thức tác chiến, thì tác chiến tập trung hiệp đồng binh quân chủng quy mô ngày càng lớn là xu thế phát triển tất yếu của chiến tranh nhân dân. Thực tế cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã chứng tỏ điều đó. Ở đây, sức mạnh của chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực luôn được kết hợp chặt chẽ với hoạt động tác chiến của bộ đội địa phương, du kích, dân quân, tự vệ. Càng về cuối cuộc chiến tranh, trên cơ sở đẩy mạnh chiến tranh du kích, chúng ta đồng thời tổ chức các binh đoàn chủ lực cơ động binh chủng hợp thành, thực hành các hoạt động chiến lược, các chiến dịch và các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược để tiêu diệt những tập đoàn quân sự chủ yếu của địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, giành thắng lợi trọn vẹn vào trưa 30-4-1975, thu non sông về một mối.

Trong những năm kháng chiến, đánh thắng kẻ thù xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Trong đó, coi trọng việc kết hợp chặt chẽ hai phương thức tác chiến của ba thứ quân trên cả ba vùng chiến lược; phát huy ưu thế về chính trị – tinh thần, lấy chất lượng cao của lực lượng vũ trang nhân dân để đương đầu và đánh bại lực lượng quân sự địch cả về chiến thuật, chiến dịch và chiến lược.

Đại tá, TS HỒ KHANG (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, biên soạn)