Iính chất hai mặt của Lao động sản xuất là gì?
Theo lý thuyết của Mác, hàng hóa có hai thuộc tính là GTSD và GT. Hai thuộc tính này, tồn tại trong bất kỳ một loại hàng hóa nào, thiếu một trong hai thuộc tính, sản phẩm không được coi là hàng hóa. Cũng theo Mác, sở dĩ, hàng hóa có 2 thuộc tính đó là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: Lao động cụ thể và Lao động trừu tượng tạo thành. 1. Lao động cụ thể.
Trong cuộc sống chúng ta thấy có rất nhiều loại hình lao động khác nhau cùng tồn tại song song. Ví dụ; làm nông nghiệp, lái xe, bán hang, thợ thủ công…đó là những lao động có ích dưới một hình thức cụ thể. Các loại lao động này tạo ra một loại sản phẩm cụ thể khác nhau. Mác gọi đó là LAO ĐỘNG CỤ THỂ. Vậy lao động cụ thể là gì? Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể có Đặc trưng như thế nào? Thứ nhất, mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Tại sao nói như vậy? Ta thấy rằng, mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, công cụ lao động riêng, đối tượng lao động riêng. Chính những cái riêng đó làm cho lao động cụ thể khác với lao động cụ thể kia. Ví dụ: Lao động cụ thể của người thợ may cần nguyên vật liệu là vải vóc, kim chỉ.. có mục đích là tạo ra sản phẩm may mặc quần áo Lao động cụ thể của thợ nề có nguyên liệu là gạch, đá, ximang … tạo ra công trình xây dựng Ngoài ra, Lao độngcụ thể của thợ mộc tạo ra sản phẩm gỗ Lao động cụ thể của thợ cơ khí tạo ra sản phẩm kim loại… Rõ ràng, Không có chuyện thợ may tạo ra sản phẩm hàn, cũng chẳng có chuyện lao động của thợ nề lại tạo ra sản phẩm gỗ phải không các bạn?
Bạn đang xem: Tính chất hai mặt của Lao động sản xuất
Như vậy, đặc trưng đầu tiên đó là lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng khác nhau.
Đặc trưng thứ hai, lao động cụ thể phản ánh trình độ phân công lao động xã hội. Trong xã hội, không ai có thể làm hết tất cả mọi việc, người ta chỉ có thể đảm nhiệm 1 lao động cụ thể nhất định. Bởi vậy, cần có phân công lao động xã hội. Lao động cụ thể muôn hình muôn vẻ tạo ra giá trị sử dụng đa dạng, cũng chính là cách phản ánh trình độ phân công lao động xã
hội. Nói như vậy, có nghĩa rằng, càng xuất hiện nhiều lao động cụ thể thì phân công lao động xã hội càng chi tiết, sản xuất hàng hóa càng phát triển, xã hội đó càng tiến bộ.
Xem thêm : Xăm Hình Có Được Đi Hiến Máu? Giải Đáp Thắc Mắc Nhanh Chóng
Đặc trưng thứ ba, Lao động cụ thể lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn Lao động cụ thể tồn tại không phụ thuộc bất kỳ vào hình thái kinh tế xã hội nào. Lao động cụ thể của người làm bánh mỳ thì vẫn là công việc tạo ra bánh mỳ, chắc chắn nó sẽ không thể tạo ra quần áo, hay đồ kim khí khi nó ở một hình thái kinh tế xã hội khác. Đến đây, ta thấy rằng lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng nên điều này cũng lý giải giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
Đặc trưng thứ tư, Lao động cụ thể ngày càng phong phú đa dạng, tính chuyên môn hóa cao. Sơ dĩ như vậy, là vì khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sinh hoạt con người ngày càng cao, với sự trợ giúp của khoa học công nghệ, những nhu cầu đó ngày càng được đáp ứng một cách hoàn hảo. Ví dụ như Hoạt động xây nhà chẳng hạn. trước kia ở thập kỷ 80, muốn xây 1 ngôi nhà, thì phải tự thiết kế hình dáng ngôi nhà và thi công xây dựng, chỉ có 1 vài người bạn hỗ trợ việc xây dựng. Nhưng ngày nay, do nhu cầu xã hội ngày càng cao về điều kiện nơi ăn chốn ở, thay “ăn no mặc ấm” chuyển sang “ăn ngon mặc đẹp” nên khi xây một ngôi nhà cần rất nhiều công đoạn và được phân công hóa lao động rõ rệt. Đầu tiên, là lao động cụ thể của kiến trúc sư thiết kế công trình, Việc thi công công trình sẽ do lao động cụ thể của người thợ xây, việc thiết kế hệ thống điện, nước sẽ do lao động cụ thể của người thợ điện, thợ nước, chưa kể thợ sơn, thợ điêu khắc … Rõ ràng, ngày càng xuất hiện nhiều loại hình lao động cụ thể khi nhu cầu xã hội và khoa học công nghệ càng phát triển. Vậy , qua 4 đặc trưng cơ bản của lao động cụ thể, chúng ta đã có thể hình dung được bản chất của lao động cụ thể rồi phải không?
Chúng ta sang mặt thứ hai của lao động sản xuất đó là “Lao động trừu tượng”. Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.
Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Còn lao động trừu tượng xem xétlao độnghao phí nhiều hay ít.
II. Nội dung tiếp theo chúng ta xem xét mối quan hệ giữa lao động cụ thể và
lao động trừu tượng như thế nào nhé:
Xét về lao động cụ thể, mỗi người sản xuất hang hóa sản xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động đó mang tính chất tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân. Còn Xét về lao động trừu tượng, khi gạt bỏ các hình thức cụ thể, thì lao động của người sản xuất hang hóa chỉ được xét là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội, nên nó có tính chất xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hang hóa. Họ làm việc cho nhau thông qua trao đổi hang hóa. Từ đó, tính hai mặt của lao động sản xuất hang hóa phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hang hóa. Hai tính chất này, mâu thuẫn với nhau Lý do như sau: Thứ nhất, Sản phẩm do người sản xuất hang hóa tư nhân tạo ra chưa chắc đã ăn khớp với nhu cầu của xã hội ( Ví dụ: tôi là nhà sx tư nhân, tôi sản xuất được 5 triệu đôi dép/năm, số lượng dép đó chưa chắc đã phù hợp vơi nhu cầu của xã hội). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số dép không bán được, tức không thực hiện được giá trị. Vậy, tính chất tư nhân và tính chất xã hội mâu thuẫn với nhau.
Xem thêm : Tổng hợp phí chứng thực tại UBND cấp xã hiện nay
Lý do thứ hai là, mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hang hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận được. Ví dụ: Tôi sản xuất dép, theo tính toán về chi phí sản xuất, 1 đôi dép của tôi phải bán ra với giá thành 2 triệu/ đôi mới có lãi. Nhưng với mức giá đó, xã hội không chấp nhận được, người tiêu dùng có thể mua dép trung quốc với giá vài tram nghìn đồng mà được đôi dep với mẫu mã cũng rất bắt mắt. Khi đó hang hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra. Vậy, tính chất tư nhân và tính chất xã hội mâu thuẫn với nhau ở chỗ đó.
Hậu quả, việc mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là khủng hoảng “sản xuất thừa”. Đây là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hang hóa. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hang hóa vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
III. ý nghĩa của việc nghiên cứu
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hỏa có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng của cá vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân.
Đồng thời, lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp