Phân tích tội ác của đối thủ Minh trong Bình Ngô đại cáo

Đề bài: Phân tích tội ác của đối thủ Minh trong Bình Ngô đại cáo

Phân tích tội ác của đối thủ Minh trong Bình Ngô đại cáo

I. Kế hoạch Phân tích tội ác của kẻ thù Minh trong Bình Ngô đại cáo (Chuẩn)

1. Giới thiệu:

– Nguyễn Trãi, nhà quân sự và nhà thơ tài năng, đã để lại dấu ấn lớn trong văn hóa và văn học dân tộc.- Bài cáo Bình Ngô đại cáo của ông được coi là bản tuyên bố độc lập quan trọng của dân tộc từ những năm 1428.

2. Phần chính:

a. Âm mưu xâm lược của quân giặc:

– Bằng lời lẽ sắc bén, Nguyễn Trãi đã phơi bày kế hoạch xâm lược của quân giặc.+ Năm 1400, triều đình Hồ chiếm đóng nhà Trần, lập nên nước Đại Ngu.+ Trong hơn sáu năm cai trị, nhà Hồ thực hiện nhiều cải cách nhưng không được lòng dân.+ Các tước quân nhà Trần aprovechando la oportunidad, gieo rắc hỗn loạn, khiến tình hình nước nhà rối bời.+ Trong bối cảnh đó, quân giặc Minh xâm nhập với khẩu hiệu ‘phù Trần diệt Hồ’, nhưng thực tế là với mục đích xâm chiếm nước ta.

– Sử dụng các thuật ngữ như ‘nhân’, ‘thừa cơ’ cùng văn phong tinh tế, Nguyễn Trãi đã tiết lộ mưu đồ xâm lược của quân đội phương Bắc đối với đất nước ta.

b. Tội ác của đối thủ:

– Quân đội Minh đã gây ra những tội ác khủng khiếp với nhân dân ta:+ Xử lý nhân dân ta như nô lệ, hành hạ cả người lớn và trẻ em: ‘Nướng dân đen’, ‘vùi con đỏ’, tạo ra những kế sách lừa dối, dối trá.+ Thành lập chính quyền tàn ác với thuế nặng nề, lao động cưỡng bức, phá hủy phong tục văn hóa,…

– Hậu quả:+ Đẩy nhân dân ta đến cái chết ở những vùng biển sâu, rừng già hoang dã.+ Gây ra những bi kịch, đau đớn, và tách biệt gia đình: ‘Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng’.+ Các nghề truyền thống như ‘canh cửi’ phải bị ‘đứt đoạn’ vì ‘gánh nặng của những nỗi đau phu phen’.

– Những hành động tàn ác của đối phương đã khiến Nguyễn Trãi phải nuối tiếc:+ Sử dụng những từ ngữ như ‘thằng’, ‘đứa’ để miêu tả sự khinh bỉ đối với kẻ thù.+ Sử dụng nghệ thuật liệt kê để mô tả đến chi tiết những tội ác của đối phương.+ Nguyễn Trãi sử dụng so sánh vô tận như ‘trúc Nam Sơn’ hay ‘nước Đông Hải’ để đánh giá tội ác của quân thù: tố cáo những hành động tày trời của chúng.

– Phần kết tội mạnh mẽ: ‘Lẽ nào trời đất có thể tha thứ/ Ai nói thần nhân có thể chịu đựng?’.=> Hành động tàn bạo của quân Minh đã vượt qua mọi giới hạn, khiến con người và cả vũ trụ đều không thể chấp nhận được.

c. Tổng kết đánh giá:

– Ý nghĩa nội dung: Mô tả âm mưu và tội ác khủng khiếp của quân Minh đối với nhân dân nước ta cùng sự căm thù của nhà thơ.

– Giá trị nghệ thuật:+ Sử dụng ngôn từ luận bàn đanh thép và quyết liệt.+ Lối văn mạch lạc và phong cách đối xứng, rực rỡ hình ảnh miêu tả toàn diện về tội ác của giặc Minh.+ Dùng giọng thơ linh hoạt, thay đổi tùy theo bối cảnh.+ Sử dụng phương pháp liệt kê và phóng đại cẩn thận để làm nổi bật tội ác của kẻ thù.

3. Tóm tắt:

Đặt ra ý nghĩa của đoạn thơ: đề cập đến tội ác của đối phương và sự căm ghét sâu sắc.

II. Bài văn mẫu Phân tích tội ác của đối thủ Minh trong Bình Ngô đại cáo (Chuẩn)

Nguyễn Trãi, một danh tướng vĩ đại, cũng là nhà thơ tài năng với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Dư địa chí, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập,… Bài cáo Bình Ngô đại cáo của ông, được coi là tuyên ngôn độc lập của dân tộc từ năm 1428, không chỉ thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của dân tộc Đại Việt mà còn mạnh mẽ tố cáo tội ác của quân Minh đối với quê hương.

Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi thực hiện theo sự chỉ đạo của Lê Lợi để công bố sự thành công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trước kẻ thù phương Bắc. Trong khoảng hai mươi năm bị giặc Minh áp bức (1407-1427), họ đã xây dựng chính quyền để đồng nhất dân tộc và cướp bóc tài nguyên của đất nước. Không chỉ thế, họ thiết lập nhiều loại thuế phi lý, làm nặng nề công việc của nhân dân, cai trị quốc gia theo luật lệ ‘man rợ’. Do đó, từ đầu, Nguyễn Trãi đã bày tỏ tư tưởng chính nghĩa của mình để giải thích cho cuộc khởi nghĩa của quân Lam Sơn, chứng minh cho tính chính xác của sự khởi nghĩa này. Ở đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi một lần nữa sử dụng ngôn từ chính luận tinh tế để phơi bày kế hoạch xâm lược của quân giặc, đồng thời tố cáo những tội ác tày trời của chúng.

Khi đọc những dòng đầu tiên của đoạn thứ hai trong Bình Ngô đại cáo, chúng ta có thể nhận thấy Nguyễn Trãi đã sử dụng từ ngôn của mình để đánh giá kế hoạch xảo trá của quân giặc, của những kẻ cướp đất nước và bán nước, như sau:

Nhân họ Hồ chịu phiền hà,Để lòng dân nước oán hận.Quân cuồng Minh thúc cơ gây họa,Bọn gian tà lại bán nước đòi danh.

Năm 1400, trong thời kỳ nhà Trần suy giảm, Hồ Quý Ly nắm quyền, thành lập nước Đại Ngu. Trong thời gian nắm quyền, Hồ Quý Ly đã thực hiện nhiều cải cách và giành lòng tin của dân chúng, nhưng những cải cách đó chỉ tạo ra ‘lòng dân oán hận’. Hơn nữa, những quý tộc nhà Trần lưu vong lợi dụng lúc nhà Hồ hỗn loạn đã tận dụng cơ hội để xâm phạm tình hình chính trị càng trở nên phức tạp, ‘chính sự’ trở nên ‘phiền hà’. Chính vì tình hình nội địa phức tạp, nhà Hồ không thể đối phó, mở cửa cho quân Minh xâm lược với chiến thuật xảo trá ‘phù Trần diệt Hồ’, nhưng thực sự là để chiếm đoạt nước ta. Nguyễn Trãi đã thông minh sử dụng từ ‘nhân’ ngay từ câu thơ đầu tiên để thể hiện sự xảo trá của quân giặc khi xâm nhập nước ta một cách ngạo mạn. Giặc Minh lợi dụng những mâu thuẫn nội bộ của các tầng lớp phong kiến Việt Nam để ‘mượn gió bẻ măng’ và chiếm đóng đất nước ta. Chúng, cùng với nhóm ‘gian tà bán nước cầu vinh’, hình thành một bộ máy tàn phá nước ta, gây hại nhân dân ta. Tác giả cũng đã sử dụng từ ‘thừa cơ’ để bóc trần chiến thuật xảo trá và bộ mặt ‘giả nhân nghĩa’ của kẻ thù khi xâm lược đất nước.

Vạch trần kế hoạch của quân giặc, Nguyễn Trãi tiếp tục tố cáo những tội ác tày trời của giặc Minh. Họ đối xử với nhân dân ta như nô lệ, thỏa mãn những thú vui đen tối, và tiêu khiển phong lưu.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.

Câu thơ là bằng chứng rõ ràng nhất về tội ác không nhân tính của giặc Minh. Họ tra tấn, hành hạ, và diệt vong dân tộc vô tội, không chỉ người lớn mà còn trẻ nhỏ – ‘con đỏ’ cũng không tha. Tội ác của chúng làm đẫm máu và nước mắt của nhân dân Đại Việt. Đó là hình ảnh đau đớn mà nhân dân ta phải chịu đựng trong ‘mấy mươi năm’ bị quân Minh xâm lược. Chúng đã ‘dối trời lừa dân’, ‘gây thù kết oán’ với nhân dân Đại Việt ta.

Hơn hai mươi năm trôi qua, từ 1407 đến 1427, giặc Minh đã thiết lập một chính quyền cai trị tàn bạo đối với nhân dân ta. Hình phạt man rợ như rút ruột người, nấu thịt người,… được chúng thực hiện mà không hề có ‘ghê tay’. Họ đặt ra hàng trăm loại thuế nặng nề, bóc lột nhân dân ta đến cùng cực, cũng như cướp đoạt tài nguyên và sản vật của đất nước ta:

Đời bại hoại, nghĩa vụt cả bầu trời,Thuế nặng kín cửa non sâu biển rộng.Người bị dồn xuống biển, lưng chật ngọc lấp, cá mập đong đưa, luồng thuồng trở nên ngán ngẩm.Kẻ bị đưa vào núi, làm cát tìm vàng, rừng sâu oan trái, nước độc ngập tràn.Vết sản vật vụt, bắt chim trả, lưới vây từng khu vực,Làm rối bời dân làng, hươu đen rơi vào bẫy, khắp nơi mưu đồ nham hiểm.

Nguyễn Trãi đã phác họa một chuỗi hành động tàn bạo của giặc Minh đối với đồng bào ta như: ‘ép xuống biển mò ngọc’ khiến cho dân ta thiệt mạng vì ‘cá mập, thuồng luồng’, người bị ‘đưa vào núi làm cát tìm vàng’ rồi chết vì ‘rừng sâu, nước độc’. Chúng còn ‘vết sản vật, bắt chim trả’, ‘bẫy hươu đen’. Bao nhiêu loài quý hiếm của đất nước ta bị chúng bắt cống nạp, tiến cống. Những người trai tráng bị bắt phu phen, đẩy lao động đến tận cùng sức lực. Không chỉ thế, chúng còn phá hủy môi trường sống của chúng ta bằng cách ‘mạng lưới’ rải rác khắp nơi, đặt bẫy khắp mọi đường đi. Những tội ác đó của quân giặc Phương Bắc đã được Nguyễn Trãi tóm gọn trong hơn mười dòng thơ nhưng ta cũng có thể nhìn thấy sự dã man, tàn ác, sự hủy diệt dòng họ, tiêu diệt mọi sự sống của quân Minh. Đó sẽ là bảng đá vĩnh cửu, lời kết tội kinh hoàng của kẻ thù với đất nước và nhân dân ta.

Hậu quả của chế độ cai trị tàn nhẫn đó là nhân dân ta bị đẩy vào bức tranh tang thương, đau lòng, chia ly: ‘Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng’. Đó là hình ảnh của những gia đình phải tan tác, vợ chồng chia xa, mẹ mất con, con mất cha, đau đớn tận cùng. Và không chỉ vậy, chúng còn bắt nhân dân ta ‘phục dich’, ‘phu phen’ đến mức cuộc sống lao động, sản xuất của nhân dân không thể hoạt động bình thường, những nghề truyền thống như ‘canh cửi’ bị ‘đứt đoạn’:

Nặng trĩu gánh nặng phu phenMọi nghề canh cửi tan tác.

Sự oan trái trong tâm hồn của Nguyễn Trãi nổi lên như bức tranh tường ông tô điểm bằng những từ ngữ kỳ diệu, miêu tả sự khinh thường đối với quân thù:

Kẻ nói năng phiến lưu, tên cười ngào, bụng ối dầu mỡ chưa chán;Nay xây biệt thự, mai đắp nền, bàn chân nào phục vụ cho vừa lòng.

Ông gọi giặc Minh bằng những từ ngữ khiếm nhã như ‘kẻ’, ‘gã’. Ông đánh giá họ như những thú dữ chỉ biết ‘hút máu’ nhân dân ta đến xương tuỷ. Nghệ thuật liệt kê mở ra trước mắt chúng ta hình ảnh sự căm hờn vô tận của nhà thơ đối với kẻ thù, cũng như lòng thương xót vô hạn ông dành cho nhân dân. Những dòng văn trắng đen xen kẽ, mở đường cho sự tố cáo tội ác nặng nề của quân giặc. Tội ác đó cao vút như núi, hòa quyện thành khối oan trái của cả dân tộc ta:

Ác thay trúc Nam Sơn không báo cáo đủ tộiBẩn thay nước Đông Hải không dọn sạch mùi.

Bằng bút pháp sặc sỡ, Nguyễn Trãi đã sử dụng những vật thể như trúc Lam Sơn, như nước biển ‘Đông Hải’ để so sánh với tội ác không giới hạn mà quân giặc đã gây ra ở đất nước ta. Và kết thúc là hai câu thơ cuối cùng, lời thơ đanh thép như lời tuyên án dành cho kẻ thù:

Có lẽ trời đất cũng không dung tha,Có ai nói rằng thần nhân chịu đựng được?

Tội ác mà quân Minh gây ra ở đất nước ta đã vượt lên trên mức vô hạn của trời đất, khiến cho mọi người phải ‘kìm hãm căm giận’ chúng đến tận xương tuỷ, ‘trời đất’ cũng không thể dung thứ.

Trong đoạn này, Nguyễn Trãi đã đứng vị trí của nhân dân để phơi bày âm mưu và tội ác của kẻ thù, lên án sự tàn bạo, độc ác của quân giặc. Vẫn là lối văn chính luận nhưng với giọng điệu mạnh mẽ, những câu văn biến ảo đối xứng, giàu hình ảnh đã làm rõ tội ác, lòng căm thù sâu sắc của Nguyễn Trãi đối với kẻ thù, đồng thời cũng thể hiện sự thương cảm, đau xót của ông đối với nhân dân Đại Việt. Giọng điệu linh hoạt, phù hợp với nội dung mỗi đoạn văn. Biện pháp liệt kê và phóng đại được sử dụng một cách khéo léo để làm nổi bật tội ác dã man của kẻ thù, biến đoạn thứ hai của Bình Ngô đại cáo thành một bản cáo trạng đanh thép.

Phần thứ hai của Đại cáo Bình Ngô không chỉ là hình ảnh tội ác mà giặc Minh gây ra cho dân tộc ta mà còn là nguồn cảm hứng cho sự căm ghét sâu sắc của nhân dân với kẻ thù, thổi bùng ngọn lửa chiến đấu của toàn dân tộc. Bằng ngòi bút chính luận tinh tế, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi thực sự là một tác phẩm ‘thiên cổ hùng văn’ đáng giá, lưu danh mãi mãi.

“”””-KẾT””””-

Bình Ngô đại cáo được xem như một ‘thiên cổ hùng văn’ của dân tộc ta, không chỉ chứa đựng những tư tưởng cao cả mà còn là bức tranh rõ nét về tội ác của kẻ thù đối với nhân dân. Hãy khám phá thêm qua các bài viết Phân tích đoạn đầu Bình Ngô đại cáo, Phân tích tư tưởng độc lập trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Nghị luận về tác phẩm Đại cáo Bình Ngô, Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi trong Đại cáo Bình Ngô để hiểu rõ hơn về tác phẩm nổi tiếng này nhé!