Nhân dịp kỷ niệm 765 năm (1246 – 2011) nước ta có học vị Trạng nguyên, xin trân trọng giới thiệu đôi nét về vị Trạng nguyên đầu tiên đầy tài năng và ân đức của nước Đại Việt – ông Nguyễn Quan Quang.
Trong lịch sử khoa cử nho học Việt Nam, kể từ khoa thi đầu tiên, gọi là thi nho học tam trường vào năm Ất Mão (1075) đời Lý Nhân Tông, trải qua hơn 100 năm, năm 1239, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 8 đời vua Trần Thái Tông, đã có 5 kỳ thi đại khoa, nhưng triều Lý và đầu triều Trần đều chưa lấy đậu trạng nguyên.
Bạn đang xem: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Các vị đỗ đầu như Lê Văn Thịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Khái, Trương Hanh và Lưu Miễn chỉ được lấy đỗ đầu nhất giáp… Phải tới khoa thi thứ 6 (khoa Đại tỉ thủ sĩ) vào năm Bính Ngọ (1246), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 15, đời vua Trần Thái Tông mới đặt danh hiệu Tam khôi (Trạng nguyên – Bảng nhãn – Thám hoa) và Nguyễn Quan Quang đã đậu Trạng nguyên, Phạm Văn Tuấn đậu Bảng nhãn, Vương Hữu Phùng đậu Thám hoa (theo Các nhà khoa bảng Việt Nam).
Xem thêm : Vai trò của xét nghiệm hormone tăng trưởng (GH)
Như vậy, ông Nguyễn Quan Quang là vị Trạng nguyên đầu tiên của nước ta. Ông người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, nay là xã Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. “Thần đồng” học lỏm Trong cuốn Văn hiến Kinh Bắc, có truyện kể về Nguyễn Quan Quang như sau: Ông sinh trong một gia đình nghèo không có tiền gạo theo học, lúc bé thường phải lân la ngoài cửa lớp nghe thầy dạy bọn học trò trong làng học sách Tam tự kinh, rồi ngồi ngay trước sân dùng gạch non viết chữ xuống nền gạch. Một hôm tan học, thầy chợt để ý thấy sân nhà có nhiều chữ, nét chữ như phượng múa rồng bay. Thầy kinh ngạc nói rằng: ” Đây mới chính là trò giỏi!”. Nói rồi, thầy gọi Quan Quang đến và cho vào học.
Quan Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười. Chẳng bao lâu, ông đã lầu thông kinh sử, ứng khẩu thành thơ, luận bàn việc đời thông thái uyên thâm. Gặp khoa thi Hương, ông ứng thi đậu Giải nguyên. Đến thi Hội lại đậu Hội nguyên, khi vua Trần Thái Tông mở khoa thi Đại Tỉ thủ sĩ, ông đậu Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên).
Người đương thời cũng như người đời sau đều gọi ông là “ông Tam nguyên”.
Chỉ một hành động mà làm tướng giặc tái mặt Sau khi vinh quy bái tổ, ông vào chầu vua để được ra xuất chính. Bấy giờ quân xâm lược Mông Cổ tiến đến biên giới, lăm le đợi ngày xâm chiếm nước ta. Vua ra chiếu cử Nguyễn Quan Quang sang thương nghị với giặc. Tên tướng giặc nổi tiếng là kiêu hùng và thâm thúy cho rằng, Quan Quang đến là để mang ba tấc lưỡi thuyết khách, hắn bèn nghĩ cách dùng uy để chế áp ông. Nhân đi qua ao bèo, hắn vớt một cây bèo lên, nắm gọn trong lòng bàn tay rồi bóp chặt. Lát sau, hắn mở ra chìa cho Quan Quang xem: Cây bèo đã nát vụn, thế rồi hắn cười sằng sặc ra chiều đắc ý lắm. Quan Quang hiểu rằng tướng giặc tỏ ý coi nước Việt như những cánh bèo non yếu chỉ cần khẽ đánh là tan. Ông liền nhặt một hòn đá rất to, rồi ném xuống giữa ao. Bèo dạt ra một khoảng trống, nhưng chỉ giây lát sau những cánh bèo tụ lại kín mặt ao. Tướng giặc tái mặt hiểu thâm ý của Quan Quang: Người Việt bao giờ cũng đoàn kết toàn dân để bảo vệ giang sơn, không một sức mạnh nào có thể khuất phục được. Sau đó, tướng giặc đã hoãn binh mà không dám tiến quân sang xâm lược nước ta ngay. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258), Nguyễn Quan Quang có nhiều cống hiến nên được nhà vua thăng đến chức Bộc xạ (tương đương Tể tướng). Khi làm quan ông hết lòng vì dân vì nước, thanh liêm, trung thực, được trong triều ngoài dân mến phục cả về tài lẫn về đức. Khi tuổi già, ông về quê hương mở trường dạy học, sống một cuộc đời thanh đạm. Người dân Tam Sơn cho rằng, ông là người khai sáng nền Hán học của quê hương, mở đường cho đất “Ba Gò” sau này có “một kho nhân tài”… Nơi Nguyễn Quan Quang dạy học về sau dân dựng lên một ngôi chùa để tưởng nhớ đến người “sống như tu”, gọi là chùa Linh Khánh. Ngôi chùa ấy nay không còn nữa, nhưng vẫn còn một cây hương đá tạc vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697), trong đó ghi công đức của Trạng nguyên Nguyễn Quan Quang với dân làng. Sau khi Nguyễn Quan Quang mất, dân làng lập đền trên núi Viềng, để thờ ông làm Thành hoàng, gọi là Bản thổ thành hoàng, đại vương phúc thần. Triều đình cũng truy phong ông là Đại tư không. Hằng năm cứ vào dịp 22 tháng chạp âm lịch, dân làng lại tổ chức “Tế phong mã” để tưởng nhớ tới vị trạng nguyên tài năng và đầy ân đức, cũng là để nhắc nhở các thế hệ con cháu nối tiếp truyền thống hiếu học, yêu dân, yêu nước của tổ tiên.
Hồng Đức
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp