Lịch sử có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi người, mỗi dân tộc, mỗi thế hệ và đặc biệt là tiến trình phát triển của một đất nước. Lịch sử là nơi khái quát nhất về cội nguồn dân tộc, quá trình hình thành và phát triển của đất nước, sự hi sinh kiên cường bất khuất, mồ hôi và nước mắt của cha ông ta trong những cuộc kháng chiến. Vậy Các triều đại phong kiến Việt Nam theo dòng lịch sử đã hình thành và trải qua như thế nào? Mời quý bạn đọc cùng ACC tham khảo bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về vấn đề này nhé!
I. Triều đại là gì?
Triều đại, hoàng triều, hay vương triều, là những danh từ thường được dùng để gọi chung hai hay nhiều vua chúa của cùng một dòng tộc nối tiếp nhau trị vì một lãnh thổ nào đó. Cũng có khi triều đại chỉ gồm một người nhưng là trường hợp hiếm. Thông thường khi đi với danh từ riêng thì chỉ viết ngắn là triều hay nhà (ví dụ: triều Nguyễn, nhà Nguyễn). Trong sử sách, triều đại của đương kim hoàng đế được gọi là hoàng triều.
Bạn đang xem: Các triều đại phong kiến Việt Nam qua dòng lịch sử
>> Nếu các bạn muốn hiểu thêm về Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ hãy đọc bài viết để biết thêm thông tin chi tiết: Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ
II. Thông tin chung
Các triều đại ở Việt Nam thường mang tên của họ của các vua chúa (nhà Ngô thì các vua họ Ngô, nhà Đinh họ Đinh,…). Cũng có trường hợp trong một triều đại có vua khác họ, như Triệu Việt Vương nhà Tiền Lý, Dương Tam Kha nhà Ngô hay Dương Nhật Lễ nhà Trần. Các vua này được gộp luôn vì trước và sau họ, dòng vua cũ (Lý, Ngô và Trần) lại được nối trở lại như cũ. Ngoài ra, tên gọi nhà Tây Sơn lấy theo nơi phát tích dù các vua họ Nguyễn, được dùng trong Việt Nam Sử Lược là “nhà Nguyễn Tây Sơn”.
Các triều đại có thể bị thay đổi bằng nhiều hình thức khác nhau như thoái vị, truyền ngôi, bị cướp ngôi, lật đổ,…
III. Chế độ phong kiến
Chế độ phong kiến tức là chế độ địa chủ bóc lột nông dân.
Đặc điểm của chế độ phong kiến là nông dân sản xuất một cách rời rạc. còn địa chủ thì bóc lột nông dân một cách tàn bạo.
Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp địa chủ, lấy vua chúa làm trung tâm, dùng mồ hôi nước mắt của nông dân để nuôi quan lại và quân lính, áp bức bóc lột nông dân một cách nặng nề.
Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là ruộng đất, nông cụ, vân vân, làm của riêng, nhưng họ không cày cấy. Nông dân buộc phải mướn ruộng đất của địa chủ, phải nộp tô cho địa chủ, lại còn phải hầu hạ và lễ lạt địa chủ. Nông dân không khác gì nô lệ.
Nông dân quanh nǎm lao động cơ cực nhưng vẫn nghèo khổ. Địa chủ là tầng lớp thuộc giai cấp thống trị, do đó không cần lao động mà vẫn có của cải, giàu sang phú quý. Có thể thấy chế độ phong kiến là một chế độ cực kỳ không công bằng, chuyên đàn áp nhân dân lao động.
Nông dân vì nghèo khó, không thể nâng cao mức sản xuất. Địa chủ chỉ lo lấy địa tô, không lo cải thiện sự sản xuất. Vì vậy, nền sản xuất trong chế độ phong kiến không thể nâng cao.
Nhà nước phong kiến được xây dựng trên cơ sở của phương thức sản xuất phong kiến mà nền tảng là nền kinh tế dựa trên sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến đối với ruộng đất cũng như một số tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của của nông dân trong sự lệ thuộc vào giai cấp địa chủ.
Ở những nhà nước phong kiến hình thành trên nền tảng công xã nông thôn thì sở hữu đất đai có những đặc thù riêng. Bằng các chính sách phong kiến, đặc biệt là các chính sách thuế ruộng các chính quyền phong kiến bắt đầu xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của nhà nước đối với ruộng đất của công xã, nhưng chấp nhận và tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất trên thực tế của công xã.
IV. Các triều đại phong kiến Việt Nam
Lịch sử Việt Nam trong hàng ngàn năm qua cũng đã từng trải qua giai đoạn phong kiến. Trong đó phải kể đến 10 triều đại phong kiến tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam như sau:
1. Triều đại nhà Ngô (939 – 967)
Trong triều đại nhà Ngô, quốc hiệu của nước ta là Vạn Xuân, kinh độ đặt tại Cổ Loa.
Sau khi Ngô Quyền đánh đuổi được quân Nam Hán đã xưng vương và thành lập nên triều Ngô.
Kể từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô năm 944, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng và đem quân đánh chiếm lẫn nhau từ đó dẫn đến hậu quả là loạn 12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm (944-968). Sau 28 năm trị vì, nhà Ngô bị tan rã dưới thời Ngô Xương Xí.
Triều đại nhà Ngô đã trải qua 5 vị vua cai trị:
- 1. Tiền Ngô Vương – Ngô Quyền ( 939-944):
- 2. Dương Bình Vương – Dương Tam Kha (Là em vợ là cướp ngôi) (944-950)
- 3. Nam Tấn Vương – Ngô Xương Căn (con thứ hai của Ngô Quyền) (950-965)
- 4. Thiên Sách Vương – Ngô Xương Ngập (Cháu Ngô Quyền) 951-959)
- 5. Ngô Sứ Quân – Ngô Xương Xí (965)
2. Triều đại nhà Đinh (968 – 980)
Dưới triều đại này, nước ta có quốc hiệu là Đại Cồ Việt.
Đinh Bộ Lĩnh khi dẹp loạn được 12 sứ quân đã thống nhất đất nước và tạo nên nhà Đinh với tên nước là Đại Cồ Việt, đóng kinh tại Hoa Lư. Sau khi vua Đinh và con trai trưởng bị ám hại năm 979 thì Đinh Toàn mới lên 6 tuổi được các triều thần đưa lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó nhà Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga (vợ của Đinh Tiên Hoàng, mẹ đẻ của Đinh Toàn), thể theo nguyện vọng các tướng sĩ, đã trao áo “Long Cổn” (biểu tượng của ngôi vua) cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn, tức là Lê Đại Hành.
Xem thêm : Nước ép cần tây có tác dụng gì? Công thức làm nước ép cần tây
Từ đây Triều đại nhà Đinh chấm dứt. Trong 12 năm trị vì, Triều đại nhà Đinh trải qua 2 đời vua là
- 1. Đinh Tiên Hoàng – Đinh Bộ Lĩnh (968-979)
- 2. Đinh Phế Đế – Đinh Toàn (979-980)
3. Triều đại Tiền Lê (980 – 1010)
Thời kỳ này nước ta có quốc hiệu là Đại Cồ Việt, kinh đô tại Hoa Lư.
Trước tình hình nhà Tống lăm le xâm lược nên Thái hậu Dương Vân Nga đã hỗ trợ Lê Hoàn lên ngôi vua, mở ra triều Tiền Lê để lãnh đạo quân đội chống giặt ngoại xâm.
Sau 30 năm tồn tại triều Tiền Lê được trao cho vua Lê Ngoại Triều – người mang nhiều tiếng xấu trong sử sách. Lê Long Đĩnh làm việc càn dỡ, giết Vua cướp ngôi, tàn bạo, róc mía trên đầu nhà sư… Do chơi bời trác táng nên Lê Ngoại Triều làm vua được 4 năm (1005 – 1009) thì mất, thọ 24 tuổi. Khi Ông mất, con tên là Sạ còn bé, dưới sự đạo diễn của quan Chi Hậu Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế.
Nhà Tiền Lê cai trị đất nước 29 năm với 3 đời:
- 1. Lê Đại Hành – Lê Hoàn (980-1005)
- 2. Lê Trung Tông – Lê Long Việt (1005)
- 3. Lê Ngoại Triều – Lê Long Đĩnh (1005 – 1009)
4. Triều đại nhà Lý (1010 – 1225)
Thời kỳ này nước ta có quốc hiệu là Đại Cồ Việt
Đại Việt thời nhà Lý tồn tại lâu dài hơn 200 năm lịch sử, có nhiều thành tựu đáng chú ý trong nhiều lĩnh vực khác nhau như Nho giáo, quân đội, nghệ thuật công trình kiến trúc,.. Trong triều đại này Phật giáo rất phát triển và được các vua Lý sùng bái. Đây cũng là triều đại duy nhất trong lịch sử có nữ hoàng lên ngôi trị vì đất nước.
Dưới sự dẫn dắt của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông bị ép đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) niên hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Cũng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông Trần Thừa được đưa vào hầu cận Lý Chiêu Hoàng và Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Ngày 21 tháng 10 năm 1225, Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ, Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng lên triều đại nhà Trần.
Thời Lý trị vì đất nước qua 9 đời Vua trong 216 năm:
- 1. Lý Thái Tổ – Lý Công Uẩn (1010 – 1028) năm 1010 dời đô về Thăng Long
- 2. Lý Thái Tông – Lý Phật Mã (1028 – 1054) năm 1054 đổi tên Quốc hiệu là Đại Việt kinh đô tại Thăng Long
- 3. Lý Thánh Tông – Lý Nhật Tôn (1054 – 1072)
- 4. Lý Nhân Tông – Lý Càn Đức (1072 – 1128) – Quốc tử giám đầu tiên được lập vào năm 1076 tại Kinh thành Thăng Long
- 5. Lý Thần Tông – Lý Dương Hoán (1128 – 1138)
- 6. Lý Anh Tông – Lý Thiên Tộ (1138 – 1175)
- 7. Lý Cao Tông – Lý Long Trát (1176 – 1210)
- 8. Lý Huệ Tông – Lý Sảm (1211 – 1224)
- 9. Lý Chiêu Hoàng – Lý Phật Kim (1224 – 1225)
5. Triều đại nhà Trần (1225 – 1400)
Quốc hiệu của nước ta dưới triều đại này là Đại Việt.
Trong 10 triều đại phong kiến Việt Nam thì triều đại nhà Trần là giai đoạn hùng mạnh nhất của lực lượng quân đội. Nước ta đã chiến thắng nhiều lần xâm phạm của các giặc Nguyên, Mông Cổ nhờ đội binh tinh nhuệ và nhiều tướng tài dẫn dắt. Nổi tiếng nhất là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.
Thiếu Đế là vị vua cai trị cuối cùng của triều đại nhà Trần, tên huý là Trần Án, kế nghiệp khi mới lên 3 tuổi. Hồ Quý Ly khi đó tự xưng là Khâm đức Hưng liệt Đại Vương. Ngày 28/2/1400, Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế nhường ngôi, phế làm Bảo Ninh Đại Vương.
Đời Trần cai trị đất nước trong vòng 175 năm với 12 đời Vua:
- 1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 – 1258)
- Chiến tranh Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1258
- 2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 – 1278)
- 3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279-1293)
- 4. Trần Anh Tông (1293 – 1314)
- 5. Trần Minh Tông (1314 – 1329)
- 6. Trần Hiến Tông (1329 – 1341)
- 7. Trần Dụ Tông (1341 – 1369)
- 8. Trần Nghệ Tông (1370 – 1372)
- 9. Trần Duệ Tông (1372-1377)
- 10. Trần Phế Đế (1377-1388)
- 11. Trần Thuận Tông (1388-1398)
- 12. Trần Thiếu Đế (1398-1400)
6. Triều đại nhà Hồ (1400 – 1407)
Quốc hiệu nước ta dưới triều nhà Hồ là Đại Ngu, kinh đô tai Tây Đô (Thanh Hóa).
Đây là triều đại phong kiến ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam chỉ tồn tại trong vòng 7 năm.
Cuối thời nhà Trần dưới thời vua Trần Nghệ Tông thì Hồ Quý Ly rất được vua trọng dụng. Dần về sau binh quyền lớn mạnh và lúc vua Trần Nghệ Tông mất thì ông bức vua Trần Thiếu Đế dời đô vào Thanh Hóa, giết hàng loạt quân thần và tuất ngôi vua, tự phong đế. Nhà Hồ từ đó được lập nên.
Năm 1406 Nhà Minh lấy cớ Hồ Qúy Ly cướp ngôi nhà Trần nên đã đem 80 vạn quân sang đánh chiếm nước ta. Quân dân nhà Hồ đã quyết liệt chông trả nhưng thất bại. Ngày 17/6/1407, quân Minh bắt được cha con Hồ Qúy Ly kết thúc 7 năm ngắn ngủi của Nhà Hồ.
Nhà Hồ (1400 – 1407) 7 năm với 2 đời Vua đổi tên Quốc hiệu là Đại Ngu
- 1. Hồ Quý Ly (1400-1401)
- 2. Hồ Hán Thương (1401-1407)
7. Triều đại nhà Hậu Lê (1428 – 1788)
Quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ là Đại Việt, kinh đô tại Đông Kinh (Hoàng thành Thăng Long ngày nay)
Xem thêm : Áp suất chất lỏng là gì? Công thức tính áp suất chất lỏng
Ngày 7/2/1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Có quân sư Nguyễn Trãi dâng sách Bình Ngô nhằm thu phục lòng người, cháu nội của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán là Trần Nguyên Hãn và nhiều nhân tài, hào kiệt các nơi tham gia. Ngày 3/1/1428, nghĩa quân hoàn toàn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập nên triều đại nhà Lê. Sử gọi là Hậu Lê để phân biệt với Tiền Lê 980-1009 do Lê Hoàn sáng lập.
Triều đại này là triều đại dài nhất trong lịch sử nước ta với 355 năm trị vì. Dưới thời Hậu Lê thì nước ta đã có nhiều phát triển từ quân sự, kinh tế, lãnh thổ. Nước ta đạt được nhiều sự thịnh vượng nhất. Trong triều đại phong kiến Hậu Lê trải qua 26 đời vua. Trong đó thời Lê sơ là 10 vị vua và thời nhà Lê Trung Hưng là 16 vị vua.
Lê sơ – Hậu Lê trải qua 10 đời vua trong 100 năm:
- Lê Thái Tổ – Lê Lợi (1428-1433)
- Lê Thái Tông – Lê Nguyên Long (1433-1442)
- Lê Nhân Tông – Lê Bang Cơ (1442-1459)
- Lê Thánh Tông – Lê Tư Thành (1460-1497)
- Lê Hiến Tông – Lê Sanh (1498-1504)
- Lê Túc Tông – Lê Thuần (6/6/1504-7/12/1504)
- Lê Uy Mục – Lê Tuấn (1505-1509)
- Lê Tương Dực – Lê Oanh (1509-1516)
- Lê Chiêu Tông – Lê Y (1516-1522)
- Lê Cung Hoàng – Lê Xuân (1522-1527)
Ngày 15/6/1527, Mạc Đăng Dung đem quân từ Cổ Trai vào kinh đô Thăng Long ép vua phải nhường ngôi, bắt Vua và Thái hậu tự tử. Như vậy Lê Cung Hoàng ở ngôi được 5 năm, thọ 21 tuổi, là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Hậu Lê.8. Triều đại nhà Mạc (1527 – 1593)
Quốc hiệu nước ta thời kỳ này là Đại Việt, đặt kinh đô tại Cao Bình – TP Cao Bằng ngày nay
Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Cung Hoàng tự xưng đế và lập ra nhà Mạc. Triều đại này đánh đấu sự chia cắt thành 2 triều đại Nam triều và Bắc triều của nước ta. Trong đó triều Mạc nằm ở Bắc triều.
Sau 66 năm tồn tại, đến thời vua Mạc Toàn chiến đấu với quân Nam triều của nhà Lê – Trịnh thất bại. Chấm dứt triều đại nhà Mạc. Triều đại nhà Mạc trải qua 6 đời vua trị vì:
- Mạc Thái Tổ – 1527-1529
- Mạc Mục Tông – 1562-1592
- Mạc Cảnh Tông – 1592-1593
- Mạc Đại Tông – 1593-1625
- Mạc Minh Tông – 1638-1677
- Mạc Đức Tông – 1681-1683 (cuối cùng) Tàn dư họ mạc còn tồn tại đến năm 1593
9. Triều đại thời Tây Sơn (1788 – 1802)
Quốc hiệu lúc bấy giờ là Đại Việt, kinh đô tại Qui Nhơn và Phú Xuân (Huế)
Anh em nhà Tây Sơn của Nguyễn Huệ đã khởi nghĩa để thống nhất Đàng Trong. Đến khi Nguyễn Phúc Ánh hòng muốn lấy lại cơ nghiệp nên đã 2 lần cấu kết giặc Xiêm và giặc Thanh để đem quân đánh chiếm nước ta. Lúc này buộc Nguyễn Huệ phải lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung hoàng đế để đem quân lật đổ Đàng Ngoài, diệt giặc xâm lược.
Khi vua Quang Trung đang định chuẩn bị đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792). Con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi không có người lãnh đạo đủ năng lực, nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ lục đục, xảy ra tranh chấp. Giữa năm 1802 Nguyễn Ánh (tàn dư của đàng trong) tiến ra chiếm được Thăng Long.
Nguyễn Ánh đã trả thù những người theo Tây Sơn vô cùng tàn bạo: Mộ của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã thành bột nhồi vào thuốc súng và bắn đi, Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, Trần Quang Diệu bị chém đầu.
10. Triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945)
Nước ta thời kỳ này có Quốc hiệu là Việt Nam, kinh đô tại Huế.
Đây là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến của nước ta. Vào thời nhà Nguyễn nước ta có phần lãnh thổ rộng lớn nhất.
Nguyễn Ánh lên ngôi nãm 1802 và lập ra triều Nguyễn với 13 đời Vua trong 143 năm:
- 1. Nguyễn Phúc Ánh (1802-1820) Sáng lập nhà Nguyễn
- 2. Nguyễn Phúc Đảm – Minh Mạng (1820 – 1841) quốc hiệu được đổi thành Đại Nam
- 3. Nguyễn Phúc Miên Tông – Thiệu Trị (1841 – 1847)
- 4. Nguyễn Phúc Hồng Nhậm – Tự Đức (1847-1883)
- 5. Nguyễn Phúc Ưng Chân – Dục Đức (1883)
- 6. Nguyễn Phúc Hồng Dật – Hiệp Hòa (1883)
- 7. Nguyễn Phúc Ưng Đăng – Kiến Phúc (1883-1884)
- 8. Nguyễn Phúc Ưng Lịch – Hàm Nghi (1884-1885)
- 9. Nguyễn Phúc Ưng Kỷ – Đồng Khánh (1885-1889)
- 10. Nguyễn Phúc Bửu Lân – Thành Thái (1889-1907)
- 11. Nguyễn Phúc Vĩnh San – Duy Tân (1907 – 1916)
- 12. Nguyễn Phúc Bửu Đảo – Khải Định (1916 – 1925)
- 13. Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy – Bảo Đại (1925 – 1945)
Vào 2/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố chấm dứt chế độ phong kiến, thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của chúng tôi về vấn đề các triều đại phong kiến Việt Nam, cũng như các vấn đề pháp lý có liên quan. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc và có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn của ACC về các triều đại phong kiến Việt Nam vui lòng liên hệ với chúng tôi bằng cách để lại bình luận hoặc liên hệ qua các thông tin dưới đây để được tư vấn và giải đáp một cách cụ thể nhất.
V. Mọi người cũng hỏi
1. Triều đại Hồ – Lý – Trần là gì và có tầm quan trọng như thế nào trong lịch sử Việt Nam?
– Trả lời: Triều đại Hồ – Lý – Trần (từ 938 đến 1400) đánh dấu sự thống nhất và phát triển của nước Việt Nam sau nhiều thế kỷ chia cắt. Đây là giai đoạn lịch sử quan trọng khi xây dựng và củng cố nền quốc gia Việt Nam, với sự hình thành và phát triển nền văn hóa và giáo dục.
2. Triều đại Nguyễn làm thay đổi cách quản lý và tạo lập tên gọi cho miền Nam Việt Nam, bạn có thể giải thích thêm về điều này không?
– Trả lời: Triều đại Nguyễn (1802-1945) thực hiện nhiều cải cách trong quản lý và lập tên gọi mới cho khu vực miền Nam Việt Nam, gồm cả việc sử dụng tên gọi “Nam Kỳ” (Cochinchina). Triều đại này tiếp tục định hình lịch sử và chính trị của Việt Nam, và tên gọi “Nam Kỳ” được sử dụng trong thời kỳ thực dân Pháp.
3. Triều đại Tây Sơn xuất phát từ đâu và có tầm quan trọng như thế nào trong lịch sử Việt Nam?
– Trả lời: Triều đại Tây Sơn (1778-1802) bắt nguồn từ cuộc nổi dậy của các nhóm nông dân và lính binh nông thôn tại miền Trung Việt Nam. Họ lật đổ chúa Nguyễn, tạo ra một chương trình cải cách xã hội và chính trị. Triều đại Tây Sơn đánh dấu một giai đoạn chấn động trong lịch sử Việt Nam và góp phần thay đổi cách quản lý và thống nhất quốc gia.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp