Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm. Ngay từ thời cổ đại, chung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng giống những phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của con người.
Bạn đang xem: Phương thức tồn tại của thế giới vật chất là
Bài viết dưới đây Luật Trần và Liên Danh xin cung cấp đến quý khách hàng nội dung về phương thức tồn tại của thế giới vật chất là.
Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, – tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.
Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng với trình dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:
Xem thêm : Bài viết
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian”. Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba chiều còn thời gian chỉ có một chiều. tính ba chiều của không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
Ý nghĩa của việc Lênin tìm ra khái niệm vật chất
– Định nghĩa của Lênin đã trả lời được câu hỏi: Vật chất có trước hay ý thức có trước?” Vật chất chính là cái có trước ý thức có sau. Vật chất chính nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức con người. Ý thức phản ánh thực tại khách quan đó và con người có khả năng nhận thức thế giới.
– Định nghĩa về vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù của vật chất với sự phát hiện ra vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức và là nguồn gốc khách quan của cảm giác.
– Định này có khắc phục được tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật đưa ra thời trước Mác.
– Phân tích định nghĩa vật chất của lênin đã bác bỏ quan điểm của chủa nghĩa duy vật tầm thường vật chất và coi ý thức cũng là một dạng vật chất.
– Định nghĩa về vật chất của Lênin đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử để thành một thể thống nhất (vật chất trong tự nhiên, trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất, đều là thực tại khách quan).
Tóm lại, phân tích định nghĩa vật chất của lênin ở trên có những ý nghĩa sau:
Việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất chính là thuộc tính tồn tại khách quan đã giúp cho chúng ta có thể phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa phạm trù vật chất với phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc phục được những hạn chế trong các quan niệm của những nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định được những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Lênin đã giải quyết triệt để được vấn đề cơ bản của triết học, đó là vật chất là cái có trước và ý thức là cái có sau, vật chất quyết định cho ý thức. Qua đó có thể thấy rằng con người có thể nhận thức được thế giới quan thông qua sự sao chép, chụp lại và phản ánh đối với thực tại khách quan. Phân tích định nghĩa vật chất của lênin đã tạo ra cơ sở nền tảng, tiền đề để có thể xây dựng quan niệm duy vật về xã hội.
Đặc điểm của vật chất
Đầu tiên, vật chất là phạm trù triết học
Thông thường chúng ta luôn nhắc đến và hình dung về vật chất như một vận dụng, một tài sản của con người. Tuy nhiên, trong phân tích định nghĩa vật chất của lênin thì nó lại là kết quả của sự thì nó lại là kết quả của sự khái quát hoá, trừ tượng hoá các thuộc tính, các mối liên hệ có vốn của sự vật, hiện tượng. Nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra và không mất đi. Do đó không thể đồng nhất các vật chất với một hay một số dạng có biển hiện cụ thể của vật chất được.
Thứ hai, vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan
Vật chất tồn tại khách quan ở trong hiện thực, bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” chính là thuộc tính cơ bản của vật chất; là tiêu chuẩn để có thể phân biệt được cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không thì vật chất cũng vẫn luôn tồn tại.
Thứ ba, vật chất đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta sao chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
Có thể hiểu rằng vật chất chính là cái có thể gây nên cảm giác ở con người. Khi nó trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các giác quan thì ý thức chính là sự phản ánh vật chất, còn vật chất lại là cái được ý thức phản ánh.
Ví dụ về mối liên hệ giữa vật chất – ý thức
Ý thức có tính tương đối độc lập và tính năng động sáng tạo để có thể tác động ngược trở lại vật chất thông qua các hoạt động của con người. Do đó, cùng với việc xuất phát từ hiện thực khách quan thì cần cản phát huy tính năng động, chủ quản, tức là việc phát hiện mặt tích cực của ý thức và hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
Ví dụ như trong ca dao tục ngữ của Việt Nam có câu “Có thực mới vực được đạo” – Nghĩa là vật chất có quyết định nhiều tới ý thức của con người. Bộ não của con người sẽ có trách nhiệm phản ánh những hiện thực cuộc sống một cách thụ thể. Từ mối quan hệ vật chất và ý thức thì con người sẽ biết cư xử và hành động cho đúng chuẩn mực.
Bên cạnh đó việc ý thức của con người quyết định vật chất còn được thể hiện rõ trong việc lựa chọn vật chất, ví dụ như khi con người có một nhu cầu sử dụng vật chất thì sẽ lựa chọn vật chất phù hợp với nhu cầu của mình, như con người muốn mua một chiếc xe để tải hàng hoá đi bán thì sẽ lựa chọn mua một chiếc xe tải thay vì lựa chọn một chiếc xe oto con,..
Nếu con người muốn xã hội càng phát triển, con người càng tài năng thì phải chủ động và phát huy năng lực của mình. Bởi có những thứ trong cuộc sống cần có sự cải tạo của con người thù mới trở nên có ích, khiến cho vật chất đó sản sinh ra nhiều món đồ, sinh vật, thực vật đa dạng hơn, hoặc nếu đó là chủ thể nhận thức có hại thì sẽ tìm cách để kìm hãm và loại bỏ khỏi thế giới con người.
Bởi vậy, nên con người chúng ta phỉa không ngừng sáng tạo, tìm tòi để thế giới vật chất ngày càng đa dạng hơn góp phần giúp cuộc sống của con người ngày càng hiện đại, văn minh.
Ý nghĩa của định nghĩa
Chống chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức.
Chống thuyết “Bất khả tri” cho rằng: con người chỉ nhận thức được bề ngoài của sự vật hiện tượng chứ không nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng. Lênin khắng định: con người có thể nhận thức được bản chất của thế giới.
Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác (đó là quan điểm siêu hình máy móc, quy vật chất nói chung về những dạng cụ thể của vật chất).
Là thế giới quan, phương pháp luận cho các ngành khoa học hiện đại tiếp tục phát triển.
Trên đây là trao đổi của công ty Luật Trần và Liên Danh về phương thức tồn tại của thế giới vật chất là, nếu quý Khách hàng có vướng mắc hãy liên hệ qua hotline để được hỗ trợ, giải quyết nhanh chóng. Rất mong được hợp tác với quý khách hàng, xin chân thành cảm ơn!
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp