Từ đơn là từ chỉ có một âm tiết, còn từ ghép phải có từ hai âm tiết trở lên. Như thế, một luận án dĩ nhiên phải bao gồm nhiều từ đơn và từ ghép chứ. Giả sử em có làm luận án thì em sẽ chịu không đếm cho chính xác được. Các bạn em có người lại cho rằng, phải nói là “chữ” mới đúng. Em rất muốn Báo Lao Động Cuối tuần giải đáp giúp ạ”.
Tôi đã xem lại Quy chế đào tạo sau đại học trước đây (số 18/QĐ-BGD&ĐT, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển ký ngày 8.6.2000) thì thấy ở mục 4.2. (tr. 15) trong Quy chế này có ghi: “Luận án được in trên một mặt giấy trắng khổ A4 (210x297cm), dày không quá 150 trang (khoảng 45.000 chữ), không kể phụ lục. Đối với các lĩnh vực khoa học xã hội thì luận án có thể đến 200 trang”. Như vậy, có thể một thầy nào đó đã nói nhầm (hoặc em nghe nhầm), trong Quy chế không viết là “từ” mà là “chữ”. Tuy nhiên, câu hỏi của bạn Trịnh Hoài Thu (liên quan đến “từ” và “chữ”) cũng đặt ra một vài vấn đề mà chúng ta cần trao đổi.
Bạn đang xem: Từ và chữ
Xem thêm : 6 loại trà là “thần dược” cho sức khỏe, giúp phụ nữ chống lão hóa lại giảm cân
Hiện nay, trong tiếng Việt, cách sử dụng các khái niệm như “chữ”, “từ”, “âm tiết” có sự khác biệt nhất định giữa cách dùng thuật ngữ và cách nói trong giao tiếp thông thường. Theo nghĩa chuyên môn ngôn ngữ học, “chữ” được dùng để chỉ “hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói”, như ta thường nói chữ Quốc ngữ, chữ Latin, chữ Sanskrit (chữ Phạn)… Đó là hệ thống mẫu tự riêng biệt cho mỗi ngôn ngữ. Còn “từ” là “đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh, dùng để đặt câu”, chẳng hạn “công nhân”, “xây”, “nhà hộ sinh” là 3 từ (ghép lại thành một câu trọn vẹn). Trong 3 từ trên, có từ 1 âm tiết, có từ 2 và 3 âm tiết. Âm tiết là “đơn vị phát âm nhỏ nhất trong ngôn ngữ”. Trong tiếng Việt, rất nhiều từ đơn có ranh giới trùng với ranh giới âm tiết (còn được gọi là “tiếng”, ví dụ: Câu thơ có sáu tiếng (= 6 từ)). Nhưng trong cách nói hàng ngày, người Việt vẫn dùng “chữ” để chỉ từ hoặc tiếng đó. Chẳng hạn, ta vẫn nói: Anh cứ viết dăm bảy chữ vào đây cho yên tâm; Lá cờ thêu sáu chữ vàng; Một chữ bẻ đôi nó còn chưa biết… “Chữ” cũng còn là tên gọi thông thường của từ ngữ gốc Hán. Ví dụ: Nhân Tết đến, nhờ bác viết tặng cho em mấy chữ “Tâm”, “Trí”, Phúc”; Ngồi bắc chân chữ Ngũ; “Lá trúc che ngang mặt chữ Điền” (Hàn Mặc Tử)…
Trong những trường hợp phải nói chính xác, như trong bản Quy chế vừa dẫn, tốt nhất là không dùng “chữ” để người đọc khỏi bị nhầm lẫn với “chữ cái” hay “chữ viết”, vốn thuộc phạm vi văn tự, mà nên dùng là “âm tiết” (và có thể chua thêm “từ đơn”, hoặc có thể giải thích thêm: chữ = âm tiết). Như vậy, người đọc (là những người có trình độ khá cao) hoàn toàn có thể hiểu và không nhầm lẫn. Và nếu dùng là “từ” như trong thư của bạn Trịnh Hoài Thu thì chắc chắn sẽ dẫn đến sự hiểu sai. Bởi chúng ta biết rằng, nhiều từ tiếng Việt có cấu trúc lớn hơn một âm tiết, ví dụ các từ: Trường phổ thông, chủ nghĩa sô vanh nước lớn, chủ nghĩa xã hội dân chủ, phép biện chứng duy vật lịch sử… Nếu lấy “từ” là đơn vị tính trong một văn bản thì chắc chắn là khó thực hiện được. Nó sẽ rắc rối bởi việc phân định rõ ràng các từ cụ thể trong một văn bản dài và phức tạp, nhiều nội dung như trong một luận án là vô cùng khó khăn.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp