Viêm phế quản phổi không đặc hiệu là gì?

Các triệu chứng của bệnh nhân mắc phải viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu phổ biến nhất là khó thở và ho tiến triển trong nhiều tuần đến vài tháng. Ngoài ra, người bệnh còn có thể sốt, sụt cân và có các triệu chứng giống như cúm. Nếu có bệnh hệ thống đi kèm, bệnh nhân có thể bị khô miệng, khô mắt, đau khớp, sưng khớp, đau cơ, khó nuốt, thay đổi da hoặc các đặc điểm khác.

Khi đánh giá lâm sàng cần, bệnh nhân nên được hỏi về việc tiếp xúc với các kháng nguyên trong không khí, danh sách các thuốc đang dùng, tiền sử tiếp xúc với bức xạ, các yếu tố nguy cơ HIV, các triệu chứng bệnh liên kết cũng như tiền sử gia đình.

Để chẩn đoán bệnh viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu, các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm nên thực hiện với một đánh giá huyết thanh học thích hợp. Bên cạnh đó, xét nghiệm HIV cũng cần được cân nhắc nếu có các yếu tố nguy cơ.

Trên hình ảnh học, chụp X-quang ngực có thể cho thấy các dấu hiệu cơ bản tăng lên và / hoặc nổi rõ mô kẽ hai bên trong viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu. Dù vậy, chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao của lồng ngực mới là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu trên hình ảnh. Hầu hết các phát hiện phổ biến có thể bao gồm tăng dấu hiệu lưới, giãn phế quản do lực kéo, giảm thể tích và thâm nhiễm chủ yếu ở các vùng thấp hơn.

Ngoài ra, sinh thiết phổi có thể hỗ trợ chẩn đoán xác định, mặc dù có thể không phải lúc nào cũng cần thiết. Yêu cầu sinh thiết phải được đánh giá trong bối cảnh lâm sàng, bao gồm cả việc có quy trình cơ bản được xác định hay không, và mức độ nghiêm trọng của tổn thương phổi. Ví dụ, trong trường hợp bệnh nhân bị viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu nghi do thuốc, can thiệp sinh thiết có thể không cần thiết. Ngược lại, trong những trường hợp không phát hiện ra căn nguyên liên quan, người bệnh sẽ có thể cần sinh thiết phổi để chẩn đoán.