Thực đơn

Nguyễn Phước Tài, Khoa Lý luận cơ sở

Tống Hoàng Huân, Khoa Xây dựng Đảng

1. Những lý luận giá trị của các nhà kinh tế học trước Marx

1.1. Học thuyết giá trị – lao động của William Petty

William Petty (1623 – 1687) là người đầu tiên suy nghĩ và viết ra một cách có hệ thống về kinh tế học, đồng thời là một trong những người đầu tiên áp dụng các nguyên lý kinh tế học vào thực tiễn[3, tr.21]. K.Marx nhận xét Petty là nhà tư tưởng, nhà thực tiễn lớn, là nhà nghiên cứu kinh tế thiên tài của giai cấp tư sản Anh và là cha đẻ của kinh tế chính trị cổ điển.

William Petty là người đầu tiên khai sinh ra lý luận giá trị – lao động, ông cho rằng giá trị được tạo ra từ lao động, tức nguồn gốc thực sự của của cải. Chính nhờ lao động mà những thứ có nguồn gốc tự nhiên trở nên có giá trị với con người, giúp con người không phụ thuộc vào tự nhiên. Như vậy, giá cả tự nhiên là giá trị hàng hóa, nó có được do con người sản xuất ra thông qua lao động. Lượng của giá cả tự nhiên hay giá trị, tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác bạc (tiền tệ). Theo ông, giá cả do con người tạo ra có tỉ lệ thuận với giá cả tự nhiên và quan hệ cung cầu – hàng hóa trên thị trường. Học thuyết giá trị – lao động của W.Petty chưa phân biệt được giá trị, giá trị trao đổi với giá cả.

Học thuyết của ông còn chịu ảnh hưởng tư tưởng Chủ nghĩa Trọng thương khi cho rằng: giá trị tiền tệ càng cao thì giá trị của hàng hóa càng cao. Ông chỉ thừa nhận lao động khai thác bạc là nguồn gốc của giá trị, còn giá trị của các hàng hoá khác chỉ được xác định nhờ quá trình trao đổi với bạc. Mặt khác, ông có đóng góp to lớn khi giải thích nguồn gốc của của cải bằng câu nói nổi tiếng là “Lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải”. Nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị – lao động khi kết luận “Lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm” tức là cả lao động và đất đai là nguồn gốc của giá trị. Điều này làm nền tảng cho các lý thuyết về vấn đề sản xuất tạo ra giá trị sau này.

1.2. Lý luận về giá trị lao động của Adam Smith

Adam Smith (1723 – 1790) được xem là cha đẻ của ngành kinh tế học do cách nhìn nhận của ông về chủ nghĩa tư bản như một hệ thống kinh tế làm cho mọi người đều giàu có lên. Ông là người đầu tiên nhìn thấy lợi ích từ việc cạnh tranh nhiều hơn và lập luận ủng hộ các chính sách thúc đẩy cạnh tranh[3, tr.56].

Học thuyết giá trị – lao động của A.Smith so với học thuyết của W.Petty có bước tiến đáng kể, như việc ông cho rằng giá trị được tạo ra từ lao động sản xuất giản đơn, lao động chính là thước đo cuối cùng để kiểm tra giá trị, còn trong chủ nghĩa tư bản thì giá trị chính là thu nhập. A.Smith đã phân biệt được sự khác nhau giữa hai cách dùng từ “giá trị”: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi với giá cả. Ông cho rằng giá trị có hai nghĩa khác nhau, có lúc giá trị do lao động trong các ngành sản xuất vật chất tạo ra (giá trị chính là chi phí lao động), có lúc giá trị hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ hàng hóa đó (giá trị chính là tiền công của lao động). Việc phân biệt sự khác nhau giữa hai cách dùng từ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này nhằm giải thích rõ thêm là giá trị trao đổi lớn hay nhỏ không có liên quan gì đến giá trị sử dụng. Đồng thời, A. Smith còn chứng minh mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Khi phân tích giá trị hàng hoá, ông đặt giá trị ở hai vị trí khác nhau: trong quan hệ với số lượng hàng hóa khác thì giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi của hàng hóa; trong nền sản xuất phát triển thì giá trị được thể hiện dưới dạng tiền tệ.

Hạn chế của A.Smith khi cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng có thể có giá trị trao đổi; giá trị hàng hóa được chia thành ba loại thu nhập “Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Những người theo trường phái Marx cho rằng A.Smith đã lẫn lộn giữa giá trị và thu nhập. Bên cạnh đó, ông cũng chưa phân biệt được lao động và sức lao động, vì vậy ông không thể giải thích lao động làm thế nào có thể tạo ra lợi nhuận. Tư tưởng này xa rời lý thuyết giá trị – lao động “Giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định, lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị”.

Bên cạnh các mặt hạn chế vừa nêu, những lý luận giá trị – lao động của A.Smith cũng có những đóng góp quan trọng về mặt khoa học, ông là người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá trị lao động, đồng thời về cơ bản ông đã kiên trì dùng lý luận giá trị lao động để nghiên cứu vấn đề lợi nhuận và địa tô. Đó là đóng góp chủ yếu của ông về mặt khoa học. Với những đóng góp như thế K.Marx đã gọi A.Smith là nhà kinh tế học tổng hợp của công trường thủ công.

1.3. Lý luận về giá trị lao động của David Ricardo

David Ricardo (1772 – 1823) nhìn nhận và phân tích các quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản và ông đã đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị học tư sản. Trong lý thuyết giá trị – lao động của mình, D.Ricardo đã kế thừa và phát triển lý thuyết của A.Smith. Như thế K.Marx nhận xét “so với A.Smith thì Ricado đã đi xa hơn nhiều”.

Ông đã phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị và giá trị trao đổi. Cho rằng giá cả hàng hóa là giá trị trao đổi của nó được biểu hiện bằng tiền, còn giá trị được đo bằng số lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa. Đồng thời ông cũng chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo để kiểm tra giá trị trao đổi..

D.Ricardo đã gạt bỏ những vấn đề không cần thiết và mâu thuẫn trong lý luận giá trị của A.Smit. Chẳng hạn, trong định nghĩa về giá trị của A.Smith, D.Ricardo chỉ ra là định nghĩa “Giá trị lao động hao phí quyết định” và cấu tạo giá trị hàng hóa được ba bộ phận cấu thành là: c + v + m là phù hợp, còn định nghĩa “Giá trị lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định” là không phù hợp. Theo ông, giá trị có được không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn mà ngay cả trong nền kinh tế hàng hóa phát triển.

D.Ricardo đã nghiên cứu ảnh hưởng của năng suất lao động đến giá trị hàng hóa vì ông cho rằng năng suất lao động trong một phân xưởng và khối lượng sản phẩm có tỉ lệ thuận với nhau nhưng hai yếu tố này có tỉ lệ nghịch với giá trị của một đơn vị sản phẩm. Bên cạnh những đóng góp to lớn đó, trong lý luận về giá trị – lao động của mình, D.Ricardo cũng có những hạn chế nhất định như: không chỉ ra được mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị hàng hóa; chưa làm rõ mặt vật chất giá trị do chưa biết đến tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa; chưa phân biệt được giá trị hàng hoá và giá cả sản xuất, chưa chỉ ra được giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội của những người sản xuất hàng hóa; chưa nghiên cứu hệ thống các hình thái giá trị, nên chưa thấy được nguồn gốc và bản chất của tiền tệ; chưa thể giải thích được sự chuyển dịch “c” vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào. Lý luận nghiên cứu của D.Ricardo còn mang tính siêu hình, ông coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật.

Tóm lại, lý luận về giá trị – lao động của D.Ricardo đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị Tư sản cổ điển. Ông đã giải thích các vấn đề lý thuyết kinh tế dựa trên nền tảng lý luận giá trị – lao động.

2. Sự hoàn thiện học thuyết giá trị – lao động của K.Marx

Karl Marx (1818 – 1883) – một cái tên đi liền với hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Ông nghiên cứu sự vận hành của các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và phân tích những vấn đề nảy sinh trong chủ nghĩa tư bản[3, tr.114].

So với các nhà kinh tế học trước đây, học thuyết của Marx đã có một bước phát triển đáng kể đó là ông đã chỉ ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Do đó, học thuyết của ông có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống lý luận kinh tế chính trị học của mình đặc biệt là lý luận giá trị – lao động mà các nhà kinh tế học trước ông chưa giải quyết triệt để. Trong bộ Tư bản quyển I, Marx có viết: “Tôi là người đầu tiên đã chứng minh một cách có phê phán tính chất hai mặt ấy của lao động chứa đựng trong hàng hóa.Vì đây là điểm xuất phát mà nhận thức của khoa kinh tế chính trị xoay chung quanh, cho nên ở đây nó cần được xem xét một cách tường tận hơn nữa”[2, tr.85-86].

Nếu như các nhà kinh tế học trước Marx có vai trò quan trọng trong việc phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng (tính có ích của một vật làm cho vật đó trở thành một giá trị sử dụng[2, tr.75]) và giá trị (là lao động xã hội đã vật hóa trong hàng hóa[7, tr.126]). K.Marx cũng có những đóng góp không kém phần quan trọng khi ông cho rằng hàng hóa là sự thống nhất biện chứng của hai mặt: giá trị trao đổi và giá trị: giá trị sử dụng của các hàng hóa là đối tượng của một môn học đặc biệt là môn thương phẩm học. Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng… Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác…giá trị trao đổi hình như là một cái gì đó ngẫu nhiên và thuần túy đối tượng, còn giá trị trao đổi nội tại, vốn có của bản thân hàng hóa…”[2, tr.75-].

Dựa trên việc phát hiện tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, ta thấy K.Marx đã có những bước tiến hơn so với D.Ricardo trong việc phân tích giá trị của hàng hóa một cách khoa học “chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng… sức sản xuất của lao động…”[2,tr81-83]. Như vậy, giá trị hàng hóa được tạo ra bằng sự kết tinh lượng lao động trong nó, thời gian cần thiết để tạo ra một sản phẩm, sức sản xuất của lao động (trình độ, quy trình sản xuất, quy mô…) trong điều kiện bình thường của xã hội.

Căn cứ vào quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển về nguồn gốc của giá trị hàng hóa là lao động và trên cơ sở phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. K.Marx đã chỉ ra giá trị hàng hóa do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa quyết định “bất kỳ lao động nào, một mặt, cũng đều là sự chi phí sức lao động của con người hiểu theo nghĩa sinh lý, và chính với tính chất lao động giống của con người hay lao động trừu tượng của con người mà lao động tạo ra giá trị hàng hóa[2, tr95](1).

K.Marx đã đưa ra một số quan điểm mới như: lượng giá trị hàng hóa, lượng giá trị sử dụng, lượng lao động và đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến các yếu tố đó. Theo Marx, dùng lượng lao động, lượng của cải được kết tinh trong hàng hóa để đo được đại lượng giá trị. Yếu tố quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy chính là lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng [2, tr80-81].

3. Kết luận

Đứng trên quan điểm của các nhà kinh tế học trước đây về học thuyết giá trị – lao động, K.Marx đã hệ thống, chọn lọc các yếu tố phù hợp để xây dựng nên học thuyết giá trị – lao động một cách đầy đủ và chuẩn xác hơn bằng việc khảo sát và phân tích hàng hóa dựa trên mối quan hệ cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trên các mặt bản chất đại lượng, hình thái biểu hiện và quy luật tác động.

Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, ta thấy được ý nghĩa to lớn của các nhà kinh tế học trước Marx và việc kế thừa, phát triển của học thuyết đó của Marx một cách khoa học góp phần đẩy mạnh việc học tập cũng như nghiên cứu học thuyết giá trị – lao động vào trong thời đại hiện nay.

Ghi chú: (1) Để chứng minh rằng “chỉ có một mình lao động mới là cái thước đo cuối cùng và hiện thực mà chúng ta có thể dùng trong tất cả mọi thời kỳ để đánh giá và so sánh giá trị của mọi hàng hóa”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ Tài chính – Cục quản lý giá (2007), Tài liệu bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá, Lưu hành nội bộ.

[2]. Các Mác (1976), bộ Tư bản, Quyển 1, Tập 1, Nxb. Sự thật – Hà Nội.

[3]. Dteven Pressman (2003), 50 nhà kinh tế tiêu biểu, Nxb. Lao động.

[4]. P.A.Samuelson và William D.Nordhaus (1997), Kinh tế học, Nxb. Thống kê.

[5]. Lịch sử các học thuyết kinh tế (2007), Nxb. ĐHQG Tp.Hồ Chí Minh.

[6]. Từ điển Kinh tế Chính trị học (1987), Nxb. Sự thật – Hà Nội.