Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên

1. Nguyên nhân thắng lợi ba lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên của quân dân nhà Trần:

– Đầu tiên, là sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân góp phần làm nên thắng lợi cuộc chiến chống quân Mông Nguyên. Nhân dân Thăng Long nhanh chóng thực hiện chiến dịch “vườn không nhà trống”, sự đoàn kết một lòng và ý chí quyết tâm chống giặc. Hội nghị Bình Than được tổ chức gồm các Vương Hầu và quan lại, kế đó là Hội nghị Diên Hồng của các bô lão có thể hiện sự đồng tâm đánh giặc. Các đội dân binh của miền núi tích cực tham gia và phong trào chống quân Mông Nguyên. Từ lúc bắt đầu thực hiện kế hoạch xâm lược Đại Việt, quân Mông Nguyên thường theo đường núi, đường biên giới đường núi tiến đánh Đại Việt và các đội liên minh miền núi là là các đội đầu tiên chặn đánh giặc. Khi quân địch rút, các đội dân binh cũng là những người chặn đường rút của giặc.

– Thứ hai, nhà Trần chuẩn bị chu đáo về mọi mặt thể hiện đường lối chiến lược và chiến thuật hết sức sáng tạo và đúng đắn. Đặc biệt, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, từ đoàn kết trong nội bộ của nhà triều đình nhà Trần cho đến toàn dân tộc.

– Thứ ba, sự đóng góp to lớn của Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn là một tướng tài, ông được cử làm tổng chỉ huy trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ hai và lần thứ 3. Ông sáng tạo cách đánh độc đáo, phù hợp với hoàn cảnh của từng giai đoạn kháng chiến.

– Thứ tư, không thể không kể đến đó là tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn dân mà nòng cốt là quân đội nhà Trần. Các tướng sĩ đã từng khắc lên cánh tay của mình hai chữ “Sát Thát” nghĩa là giết giặc Nguyên Mông để vực dậy ý chí quyết tâm, quyết chiến, quyết thắng, không vì giặc mạnh mà chùn bước.

– Thứ năm, chiến lược sáng tạo của nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên “kế hoạch vườn không nhà trống”; “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” của kẻ thù; biết phát huy lợi thế của quân ta, buộc địch từ thế mạnh chuyển sang thế yếu; còn quân ta từ bị động chuyển sang thế chủ động.

2. Ý nghĩa lịch sử trong ba lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên:

2.1. Ý nghĩa lịch sử:

– Ý nghĩa đầu tiên, đó là đập tan nguyện vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của quân Nguyên bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của dân tộc. Quân ta đã đánh bại một kẻ thù hùng mạnh và tàn bạo nhất thế giới lúc bấy giờ.

– Ý nghĩa thứ hai, nâng cao lòng tự hào, tự cường trước dân tộc ta và củng cố niềm tin cho nhân dân ta. Trước lực lượng xâm lược của quân Mông Nguyên tương đối đông và hùng mạnh, quân ta chuẩn bị rất chu đáo kế hoạch chiến đấu.

– Thứ ba, là xây đắp thêm truyền thống quân sự Việt Nam.

– Thứ tư, ngăn chặn sự xâm lược của quân Nguyên đối với các nước khác, đặc biệt là nước Nhật Bản

2.2. Những bài học lịch sử từ ba lần chiến thắng quân xâm lược Mông Nguyên:

– Cuộc kháng chiến chông quân Mông Nguyên là một tấm gương tiêu biểu về tinh thần yêu nước, đoàn kết, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của quân và dân Đại Việt. Những bài học lớn mà chúng ta có thể rút ra được từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông: dùng mưu trí để đánh giặc, lấy đoàn kết toàn dân làm sức mạnh, chung sức xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc trước các thế lực thù địch.

3. Tóm tắt ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông:

3.1. Cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất:

– Năm 1225, Lý Chiêu Hoàng ban chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh, chấm dứt 216 năm trị vì của nhà Lý, mở ra thời đại của nhà Trần. Cùng lúc đó, ở phương Bắc vào đầu thế kỷ XIII trên đất nước Mông Cổ hình thành một quốc gia quân sự độc tài khét tiếng tàn bạo. Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu, cỏ không mọc đến đó.

– Ngột Lương Hợp Thai đóng binh ở phía Bắc Đại Việt, sai hai sứ giả đến dụ hàng Đại Việt. Vua Trần không nghe lời dụ hàng, đã nhốt hai sứ giả vào ngục và trói bằng dây tre. Sau đó, xuống chiếu ra lệnh đem quân thủy bộ gia ngăn giữ biên giới theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn và truyền cả nước sắm sửa vũ khí.

– Ngột Lương Hợp Thai mang khoảng 3 vạn kỵ binh Nguyên Mông, và 2 vạn kỵ binh Đại Lý, tiến vào Đại Việt. Chúng chia quân thành 2 cánh, 1 cánh do Ngột Lương chỉ huy và cánh quân còn lại do Triệt Triệt Đô chỉ huy. Trên đường tiến xuống sông Thao ở vùng Kinh Bắc Đại Việt, Triệt Triệt Đô làm Tiên Phong, A Chuẩn ở sau làm hậu thuẫn. Đến tháng 12 năm 1257, hai đạo quân hợp lại với nhau. Cuối năm 1257, quân Mông Cổ xâm lấn Bình Lệ Nguyên. Vua Trần Thái Tông tự mình dẫn theo 2 vạn cấm quân cùng 8 vạn quân ở các địa phương gần kinh thành để chống lại.

– Tháng 01/1258, quân Nguyên Mông giáp trận quân Đại Việt tại Bình Lệ Nguyên, nay là huyện Bình Xuyên. tỉnh Vĩnh Phúc. Quân Mông Nguyên để Ngột Lương Hợp Thai sử dụng đạo quân tiên phong do Triệt Triệt Đô chỉ huy làm mồi nhử sau đó để cánh quân tập hậu đánh vào sau lưng quân Đại Việt rồi mới xông vào cướp thuyền. Còn đại quân thì xung trận trực tiếp vào quân Trần. Nhưng kế hoạch đã đổ bể khi Triệt Triệt Đô vừa sang được sông, leo lên bờ gặp quân Trần là đánh, quên mất nhiệm vụ cướp thuyền. Quân tiên phong của Mông Cổ đã lọt vào trận địa trùng điệp của nhà Trần.

– Lúng túng trước tình thế, Ngột Lương Hợp Thai vội vã xua đại quân vượt sông. cánh hậu quân đi cắt đường tiếp viện của quân ta cũng xông vào trận địa. Tuy nhiên, thế trận bất lợi, vua Trần phải quyết định bỏ trận địa,rút lui để bảo toàn lực lượng

– Trong khi đó Triệt Triệt Đô đã kéo quân đến gần bến thuyền của Đại Việt nhằm bắt sống vua Trần. Đúng lúc, tướng Phạm Cư Trinh cùng quân cứu viện đã liều chết xông ra ứng chiến chặn ngang quân địch và hi sinh. Nhờ vậy, vua và quan quân Trần đã kịp thời thoát lên thuyền. Kỵ binh của địch truy kích bám theo thuyền của quân Trần dọc bờ, ra sức bắn tên loạn xạ. Đoàn thuyền xuôi dòng với Phù Lỗ, phá cầu Phù Lỗ và lập trận tuyến phòng ngự ở bờ Nam sông Cà Lồ để chặn địch.

– Ngày 18 tháng 1 năm 1258, quân Mông Cổ và quân Đại Việt tiếp tục đụng độ trong trận Phù Lỗ. Để bảo toàn lực lượng, vua Trần tiếp tục cho lui quân về Thăng Long.

– Sau đó, quân dân nhà Trần quyết định bỏ kinh thành Thăng Long về Thiên Mạc (Duy Tiên tỉnh Hà Nam) và thực hiện kế “vườn không nhà trống” (không để lại bất cứ lương thảo cho quân giặc). Quân Mông Cổ chiếm được kinh thành Thăng Long nhưng lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng.

– Trong tình hình nguy nan,, vua Trần Thái Tông hỏi ý kiến Thái Sư Trần Thủ Độ nhận được trả lời: “Đầu thần còn chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Ngày 29 tháng 1 năm 1258, vua Trần Thái Tông và thái tử Trần Hoảng ngược sông Hồng phản công quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu (phố Hàng Than, quận Ba Đình, Hà Nội). Quân Mông Cổ thua trận phải chạy trốn về nước. Đến Quy Hóa (Yên Bái tỉnh Lào Cai), quân Mông Cổ bị thổ quan người Tày là Hà Bổng huy động quân ra đánh.

– Vua tôi nhà Trần đã bảo vệ thành công bờ cõi giang sơn, đập tan âm mưu xâm lược của quân Mông Nguyên hùng mạnh. Năm 1258, vua Trần Thái Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng(tức là Trần Thánh Tông) đất nước được sống yên bình gần hai thập niên cho tới khi quân Mông Cổ lại một lần nữa tấn công Đại Việt.

3.2. Cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai:

– Sau cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất vào năm 1258, Mông Nguyên tập trung vào cuộc chiến dứt điểm Nam Tống. Hốt Tất Liệt sai người sang Đại Việt sách nhiễu, dụ vua Trần sang chầu nhưng không thành, Hốt Tất Liệt phong con trai thứ 9 của mình là Thoát Hoan làm trấn Nam Vương, lên kế hoạch xâm chiếm Đại Việt.

– Về phía Đại Việt, các vua tôi nhà Trần được lệnh tuyển thêm quân và lực lượng riêng của mình. Quân đội liên tục được tập trận. Đầu tháng 12/1282, sau khi nhận được tin về ý đồ của nhà Nguyên, vua Trần đã triệu tập một hội nghị quân sự tại Bình Than để bàn kế giữ nước. Trần Quốc Tuấn hay Trần Hưng Đạo được phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh tất cả các lực lượng vũ trang của Đại Việt. Trần Quốc Toản vì tuổi còn nhỏ, không được dự hội nghị than đã tức giận văn vất vả làm sau đó lui về huy động hơn nghìn gia nô và người nhà xả vũ khí, đóng chiến thuyền và viết lên cờ 6 “Phá cường địch- Báo hoàng ân” chờ ngày ra trận.

– Đầu tháng 2/1284, Hội nghị Diên Hồng được tổ chức và quyết định đánh quân Nguyên. Từ đầu năm 1285, quân Nguyên với 50 vạn quân chia ra làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt. Đạo thứ nhất, do tướng Mông Cổ là Toa Đô đang xâm lược Chiêm Thành đánh lên từ phía Nam. Đạo thứ hai, do Nạp Tốc Lạt Đinh từ Vân Nam vào Đại Việt qua vùng Tuyên Quang, tiến theo sông Chảy. Còn Thoát Hoan chỉ huy đạo thứ ba, kéo đại quân tiến đến Ải Nam Quan. Biết được tình hình và dự đoán hướng tấn công của địch, quân ta triển khai thế trận phòng thủ trên hướng Bắc. Trần Hưng Đạo trực tiếp chỉ huy một lực lượng lớn đối đầu với lực lượng chính của địch. Hướng Tây Bắc, Trần Nhật Duật chỉ huy hai đạo quân nhằm ngăn chặn quân Nguyên từ Vân Nam tiến sang. Phía Nam, Trần Quang Khải trực tiếp chỉ huy một đạo quân trấn giữ ở vùng Nghệ An – Hà Tĩnh chặn đường quân Nguyên đánh lên.

– Ngày 27/01/1285, Trần Hưng Đạo phân binh giữ ải Khả Lý và Chi Lăng, còn mình thì tự dẫn quân giữ ải Nội Bàng. Thoát Hoan chia quân ra đánh và nhanh chóng vượt qua các tiền đồn rồi bao vây ải Nội Bàng. Quân Trần kém thế, phải lùi về Vạn Kiếp, các tướng thu nhặt tàn toàn quân, rồi cũng kéo về đấy. Tại đây, Trần Hưng Đạo đã viết Hịch tướng sĩ để nâng cao tinh thần của quần sĩ. Nghe được lời khuyên răn, ai lấy hết lòng luyện tập, quyết chí đánh giặc. Người nào cũng lấy mực xăm vào cánh tay hai chữ “Sát Thát” nghĩa là giết quân Mông Cổ.

– Trần Hưng Đạo lại tập trung quân tại Vạn Kiếp được hơn 20 vạn. Quân Nguyên kéo đến đánh Vạn Kiếp, quân ta lui về Thăng Long. Khi quân giặc kéo đến Thăng Long, quân ta bỏ thành, thực hiện chiến lược “vườn không nhà trống”, rút lui về Thiên Trường. Lúc này, cánh quân của Toa Đô đánh ra Nghệ An, Thanh Hóa. Thoát Hoan chỉ huy quân đội đánh xuống nhằm bắt sống vua Trần lúc này đang ở Thiên Trường. Trước tình cảnh nguy cấp, thượng tướng quân Trần Quang Khải đem binh trấn giữ vùng Nghệ An. Trần Bình Trọng giữ trấn giữ Thiên Trường. Trần Hưng Đạo rước xa giá vua Trần về Thanh Hóa, rồi lại đến Quảng Yên. Quân địch thất bại trong âm mưu bắt được lãnh đạo quân Đại Việt. Trần Ích Tắc đầu hàng theo nhà Nguyên, được Hốt Tất Liệt gia phong làm An Nam quốc vương. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng ở lại giữ Thiên Trường, Thoát Hoan vây đánh rồi bị bắt. Trần Bình Trọng thà chết chứ không đầu hàng giặc, bị chém đầu.

– Lúc này quân Nguyên lui về giữ Thăng Long, lại thiếu thốn lương thực. Trước thế giặc đã không mạnh như lúc đầu, Trần Hưng Đạo quyết định mở cuộc phản công chống lại quân Nguyên. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật làm chủ tướng, Trần Quốc Toản làm phó tướng chặn đánh cánh quân Toa Đô trong trận Hàm Tử, giành chiến thắng vẻ vang. Quân Toa Đô phải lùi về giữ bãi Thiên Trường.

– Hay tin thắng trận, Trần Hưng Đạo thừa thắng lấy lại kinh thành Thăng Long. Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão đi thuyền đường vòng ra biển rồi bất ngờ đánh vào bến Chương Dương, giải phóng Thăng Long. Quân Thoát Hoan thua to phải bỏ thành Thăng Long rút lên phía Bắc Ninh.

– Sau trận Chương Dương, cánh quân Toa Đô vẫn chưa hay biết Thoát Hoan thua trận. Tháng 5 năm 1858, Trần Hưng Đạo đích thân chỉ huy quân Đại Việt đánh bại quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy trong trận Tây Kết. Toa Đô tử trận, còn Ô Mã Nhi đi thuyền nhỏ trốn thoát ra biển. Cánh quân Vân Nam của Nạp Tốc Lạt Đinh chạy về Vân Nam đến địa phận huyện Phù Ninh đã bị các toán quân của Hà Đặc và Hà Trương tấn công. Quân Nguyên thua chạy . Như vậy, trận chiến chống Mông Nguyên lần 2 đã kết thúc quân Đại Việt đã đuổi 50 vạn quân Mông Cổ ra khỏi bờ cõi trong vòng 6 tháng.

3.3. Cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba:

– Sau 2 lần thảm bại trước Đại Việt khiến Hốt Tất Liệt hết sức tức giận liền bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản để tập trung cho việc trả thù Đại Việt. Hốt Tất Liệt tiếp tục giao cho Thoát Hoan chỉ huy cuộc chiến. Quân số khoảng 30 vạn, gần ba trăm chiến thuyền được gấp rút đóng mới, khoảng 70 chiếc dùng để chuyên chở lương thực và cỏ khô do Trương Văn Hổ chỉ huy.

– Đầu năm 1286, vua Trần trao trả 5 vạn tù binh quân Nguyên về nước. Triều đình Đại Việt liên tục thể hiện thái độ mềm mỏng nhưng không dập tắt được tham vọng và lòng thù hận của quân Nguyên. Đứng trước chiến tranh cận kề, vua tôi nhà Trần tổ chức duyệt binh quy mô lớn nhằm chỉnh đốn quân đội. Tổng số quân nhà Trần lần này ước tính vào khoảng 32 vạn. Cuối năm 1287, Thoát Hoan mượn tiếng đưa An Nam Quốc vương Trần Ích Tắc về nước tiến quân đến sát Châu Tư Minh gần biên giới Đại Việt.

– Tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan chỉ huy đạo quân đường bộ đánh vào Lạng Sơn, Bắc Giang. Ô Mã Nhi theo đường thủy ngược sông Bạch Đằng, tiến về hội quân với Thoát Hoan. Quân Trần bố trí lực lượng, trong đó: Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái chỉ huy 3 vạn quân trấn giữ Lạng Sơn; Lê Phụ Trần, Trần Quốc Toản đem 3 vạn quân phòng thủ Nghệ An. Đích thân Trần Hưng Đạo đem quân trấn thủ vùng Quảng Yên (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Trước thế tấn công mạnh mẽ của quân Nguyên, Trần Hưng Đạo phải cho lùi quân khỏi Vạn Kiếp, tập hợp quân trở về vùng sông Đuống nhằm chặn quân địch chiếm thành Thăng Long. Lúc này, quân của Thoát Hoan thành công chiếm được Vạn Kiếp, lập cứ điểm ở đây.

– Cuối tháng 1 năm 1288, Thoát Hoan chia quân làm 3 hướng, đánh chiếm thành Thăng Long. Quân dân ta áp dụng chiến lược “vườn không nhà trống”khiến quân của Thoát Hoan cạn kiệt lương thực, Ô Mã Nhi gấp rút vận chuyển lương thảo. Đội quân của Ô Mã Nhi truy bắt vua Trần nhưng nhà vua đã thoe đường biển về Thanh Hóa. Ô Mã Nhi dẫn đoàn thủy quân đi ngang qua Thái Bình, cho người phá hủy lăng thờ các vua nhà Trần. Khi đến Vân Đồn, Ô Mã Nhi đụng độ quân của Trần Khánh Dư.Trần Khánh Dư thua trận. Sau đó, đội quân của Ô Mã Nhi đi trước về hội quân với Thoát Hoan. Đoàn thuyền chở lương thực, binh khí do Trương Văn Hổ chỉ huy theo sau. Tận dụng thời cơ đó, tướng Trần Khánh Dư đánh chặn đoàn thuyền quân lương này, thu hoạch đại thắng.

– Thoát Hoan nghe theo, bèn chia quân theo hai đường thủy bộ để về nước. Thủy quân do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy rút về theo đường sông Bạch Đằng. Về phía quân Trần, Nguyễn Khoái bí mật cho lính đóng cọc nhọn bịt sắt vào lòng sông Bạch Đằng. Phạm Ngũ Lão, Phạm Chế Nghĩa lại đem binh mai phục ở ải Nội Bàng (Lạng Sơn).

– Khi quân Ô Mã Nhi đến sông Bạch Đằng, quân ta giả vờ đánh thua dụ địch vào trận địa cọc ngầm. Khi quân địch đuổi tới, nước thủy triều rút xuống làm lộ ra bãi cọc ngầm. Quân Đại Việt 2 bên bờ đánh xuống, thuyền của quân Mông Nguyên lại va vào bãi cọc, đắm rất nhiều. Thủy quân của quân Mông Nguyên tan vỡ. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bị bắt.

– Ở phía cánh quân đường bộ, Thoát Hoan chỉ huy quân Nguyên rút lui bị Phạm Ngũ Lão chặn đánh. Thoát Hoan thành công chạy thoát về nước nhưng quân Mông Nguyên thiệt hại nặng nề.