Ý nghĩa của sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

1. Bối cảnh ra đời nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa:

– Sau Nội chiến Trung Quốc và sự giúp đỡ của lực lượng Mao Trạch Đông chống lại Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, Đảng Tưởng phải chạy sang Đài Loan,

– Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Quảng trường Thiên An Môn được trang trí lộng lẫy lạ thường. Trên cùng bục có dòng chữ “Lễ thành lập chính quyền nhân dân Trung Hòa”. Buổi lễ có một bức chân dung rất lớn của Chủ tịch Mao Trạch Đông. 2h55 chiều, sau cuộc tranh cử đầu tiên của chính phủ tại Điện Cần Chánh ở Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông và các lãnh đạo nhà nước lên xe tới Quảng trường Thiên An Môn. Đúng 3 giờ ngày 1/10/1949, sau khi đoàn nhạc quân đội hát xong bài hát, Mao Trạch Đông bước tới tuyên bố với toàn thế giới về sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

2. Sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:

Sau khi cuộc chiến tranh chống Nhật kết thúc, ở Trung Quốc xảy ra cuộc nội chiến (1946-1949) giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản.

– Ngày 8 tháng 5 – 20 tháng 7 năm 1946, nội chiến nổ ra.

– Từ tháng 7 năm 1946 đến tháng 6 năm 1947: Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc thực hiện chiến lược phòng thủ tích cực.

– Từ tháng 6 năm 1947 đến năm 1949, Quân Giải phóng Nhân dân dần dần giải phóng lục địa Trung Quốc.

– Ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, đứng đầu là Chủ tịch Mao Trạch Đông.

3. Ý nghĩa của sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:

– Chấm dứt nạn dịch hơn 100 năm đế quốc chủ nghĩa và xóa bỏ tàn dư của chế độ phong kiến, đưa Trung Quốc bước vào thời đại mới, thời đại độc lập, tự lập.

– Với sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, hệ thống xã hội chủ nghĩa được kết nối từ Âu sang Á.

– Đối với thế giới: Trung Quốc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa nối liền từ Âu sang Á.

– Có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc châu Á, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á.

4. Trung Quốc – cuộc cách mạng dân tộc dân chủ từ 1919 – 1945:

4.1. Sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc:

Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga có ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến cách mạng Trung Quốc.

Ngày 4/5/1919, phong trào quần chúng chống chủ nghĩa đế quốc, phong kiến bùng nổ, phản đối các nước đế quốc trong “Hội nghị hòa bình Paris” bác bỏ những đề nghị chính đáng và âm mưu dụ dỗ Trung Quốc của Trung Quốc. xé nát Trung Quốc. Phong trào bắt đầu bằng cuộc biểu tình của 3000 sinh viên trước Thiên An Môn yêu cầu trừng phạt những phần tử bán nước trong chính phủ. Cảnh báo đã được áp dụng và hơn 30 học sinh đã bị bắt đi. Vào ngày 3 tháng 6, chính quyền Bắc Kinh đã bắt giữ hơn 300 sinh viên và đến ngày 4 tháng 6, hơn 1.000 người lại bị bắt giữ. Chính sách khủng bố bạo lực của chính phủ bán quốc gia càng cố gắng thúc đẩy sự phát triển.

Sau ngày 3/6, trung tâm của phong trào yêu nước từ Bắc Kinh chuyển về Thượng Hải – thành phố lớn, trung tâm công nghiệp và thương mại lớn của Trung Quốc. Lực lượng chủ yếu của phong trào chuyển từ sinh viên sang giai cấp công nhân.

Phong trào Ngũ Tứ nhanh chóng mở rộng ra 20 tỉnh, hơn 100 thành phố, trong đó có đông đảo tầng lớp nhân dân, chủ yếu là tầng lớp lao động. Những thách thức thành công lớn của người lao động ở Thượng Hải, Nam Kinh, Thiên Tân, Hàng Châu, Vũ Hán, v.v. đã mang lại lợi thế cho gió. Chính phủ Trung Quốc buộc phải trả tự do cho những người bị bắt vì tham gia đấu tranh và không ký Hiệp ước Versailles.

Phong trào Ngũ Tứ đánh dấu thời kỳ giai cấp công nhân Trung Quốc trở thành một lực lượng chính trị hùng mạnh và bắt đầu bước lên sân khấu chính trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc.

Lý Đại Chiêu là người Trung Quốc đầu tiên tiếp xúc với chủ nghĩa Mác-Lênin. Cuối năm 1918, Lý Đại Chiêu tuyên truyền Cách mạng Tháng Mười Nga. Những năm 1918-1919, những người cộng sản ở Trung Quốc đã thành lập các Hiệp hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Thượng Hải và Bắc Kinh. Vào tháng 5 năm 1920, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, phân nhóm cộng sản đầu tiên được thành lập tại Thượng Hải. Sau đó, các phân nhóm cộng sản được thành lập ở nhiều nơi trong nước như Quảng Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, v.v.

Ngày 1/7/1921, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, các chi bộ cộng sản khắp nơi đã cử 12 đại biểu đại diện cho 57 đảng viên đến dự Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải. Trần Độc Tú không tham dự đại hội nhưng được bầu giữ chức vụ lãnh đạo ĐCSTQ. Trần Đốc Tú là nhà dân chủ cấp tiến, sau này trở thành nhà tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và là người giải quyết công cuộc xây dựng giai cấp vô sản. Trần Độc Tú có ảnh hưởng lớn trong Đảng nhưng thực chất không phải là người chân chính, sau này trở thành người có cơ hội văn chương. Đại hội công bố đủ điều kiện và bổ nhiệm cơ quan lãnh đạo của Đảng. Như vậy, ở Trung Quốc đã chính thức xuất hiện giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa cộng sản làm mục tiêu, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm kim chỉ nam hành động. Đó là một bước đi quan trọng trong lịch sử cách mạng Trung Quốc.

Tháng 7 năm 1922, Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai tại Thượng Hải, với 12 đại biểu đại diện cho 123 đảng viên. Căn cứ chỉ thị của Lênin gửi Quốc tế Cộng sản về cách mạng ở các nước thuộc địa, được đưa ra trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của xã hội Trung Quốc, Đại hội đã định ra cương lĩnh cao nhất và cương lĩnh thấp nhất của Đảng.

Đại hội đã thông qua Tuyên ngôn của Đảng gồm ba phần:

Phần rõ ràng nhất là chia thế giới thành hai phe đối lập sau chiến tranh. Thứ nhất, mặt trận dân tộc phản cách mạng đã liên kết với nhau để xóa bỏ sự áp bức của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Thứ hai, mặt trận thống nhất của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc.

Phần thứ hai phân tích thực chất của xã hội Trung Quốc, thực chất của cách mạng Trung Quốc và động lực của cách mạng Trung Quốc: Trung Quốc là nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến; trước mắt là cách mạng Trung Quốc là cách mạng dân chủ, toàn dân tộc chống đế quốc, phong kiến; động lực cách mạng bao gồm giai cấp công nhân, nông dân và tiểu tư sản; Giai cấp tư sản dân tộc là một cuộc cách mạng mạnh mẽ.

Phần thứ ba của Tuyên ngôn nêu cương lĩnh cao nhất và thấp nhất của Đảng. Đó là một vấn đề quan trọng đã được thảo luận tại Đại hội đồng. Xây dựng lãnh địa cao nhất của Đảng có ý nghĩa Cộng sản ở Trung Quốc. Cương lĩnh thấp nhất của Đảng là hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân chủ – tức là chống đế quốc, chống quân phiệt, xây dựng nước cộng hòa dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, cách mạng Trung Quốc có một viên kim cương nhầm. Đại hội II quyết định gia nhập Quốc tế Cộng sản và thông qua nghị quyết quyết định xuất bản Tuần báo Hướng đạo, cơ quan trung ương của Đảng.

Đại hội toàn quốc lần thứ 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc Cuộc tổng tuyển cử tháng 6 năm 1923 tại Quảng Châu với sự có mặt của 30 đại biểu thay mặt cho 432 đại hội đã đề xuất phương án thành lập Mặt trận chậm nhất. Phong trào dân tộc – dân chủ nhằm tập hợp lực lượng cách mạng chống dân tộc và chế độ phong kiến. Đại hội chỉ trích những sai lầm “cánh tả”, “huy huynh” và quyết định hợp tác với các dân tộc của Tôn Trung Sơn, biến nó thành một liên minh cách mạng của công, nông dân và tiểu tư sản. và giai cấp tư sản dân tộc cùng nhau tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng.

4.2. Diễn biến của Cách mạng Cộng sản Trung Quốc:

Lực lượng quân sự trong nước phát triển nhanh, mở rộng vùng giải phóng. Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc. Vận dụng linh hoạt đường lối chiến lược mà nhân dân, Đảng Cộng sản và Quân Giải phóng nhân dân đã từng bước tăng cường để giành lại thế chủ động.

Tháng 10 năm 1945, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hiệp ước Quốc dân đảng ký hiệp định chấm dứt nội chiến và triệu tập hội nghị hiệp thương chính trị để tái thiết đất nước. Mặc dù cuộc bầu cử đã được tổ chức nhưng Đảng Quốc dân – với sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ – vẫn đang chuẩn bị cho cuộc nội chiến. Tháng 7 năm 1946, Tưởng dẫn quân đồng loạt tấn công các vùng giải phóng do Đảng Cộng sản kiểm soát.

Từ cuối năm 1946, Đảng Cộng sản tiếp tục tổ chức lực lượng nông dân ở các vùng mới để giải phóng ruộng đất khỏi chế độ phong kiến và địa chủ, từng bước thực hiện dân chủ mới. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã thực hiện chiến lược phòng thủ tích cực, không giữ đất mà chủ yếu nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực của quân đội và xây dựng lực lượng. Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1946, Quân giải phóng chuyển từ phòng thủ sang phản công trên quy mô toàn quốc. Sau đó, các vùng Liễu Ninh, Thẩm Dương, Thiên Tân lần lượt được giải phóng. Tháng 4 năm 1949, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vượt sông Dương Tử để tấn công thành trì của Quốc dân đảng Dnarg. Cơ sở giá trị của Đảng Nhân dân chính thức đã giảm sút. Từ ngày 21 đến ngày 30 tháng 9 năm 1949, Hội nghị Hiệp thương Chính trị được triệu tập tại Bắc Kinh để thông qua Cương lĩnh chung và bầu Hội đồng Chính phủ làm Chủ tịch Mao Trạch Đông. Hội đồng bổ nhiệm Chu Ân Lai làm Thủ tướng và giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức được thành lập.