MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU CHUNG…………………………………………………………….
NỘI DUNG:…………………………………………………………………………………………….
Bạn đang xem: Vai trò của công nghiệp đối với nền kinh tế
KẾT LUẬN:…………………………………………………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO:……………………………………………………………………..
Theo mức độ thâm dụng vốn và tập trung lao động, chúng ta có 2 nhóm ngành công nghiệp là công nghiệp nặng (luyện kim, công nghiệp năng lượng, điện tử – tin học…) và công nghiệp nhẹ (chế biến thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm…)
Theo sản phẩm và ngành nghề, các ngành công nghiệp được phân tách riêng rẽ và chuyên biệt hơn, chẳng hạn nhóm ngành công nghiệp ô tô, công nghiệp dầu khí, công nghiệp dệt…
Theo phân cấp quản lý, chúng ta có hai nhóm ngành là công nghiệp địa phương và công nghiệp trung ương.
Hiện nay ở Việt Nam, công nghiệp được phân chia thành 2 nhóm A và B. Công nghiệp thuộc nhóm A là công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, là cơ sở của tái sản xuất mở rộng. Công nghiệp thuộc nhóm B là công nghiệp sản xuất vật phẩm tiêu dùng. Chi công nghiệp thành công nghiệp thuộc nhóm A và công nghiệp thuộc nhóm B là để nghiên cứu các quan hệ giữa sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất vật phẩm tiêu dùng, đồng thời còn để nghiên cứu quan hệ giữa các ngành trong nội bộ công nghiệp thuộc nhóm A và các ngành trong nội bộ công nghiệp thuộc nhóm B. Cụ thể hơn, công nghiệp được chia ra thành 13 nhóm ngành công nghiệp lớn là:
Ngành công nghiệp điện lực
Ngành công nghiệp khai thác và chế biến nhiên liệu
Ngành công nghiệp khai thác và luyện kim đen
Ngành công nghiệp khai thác và luyện kim màu
Ngành công nghiệp chế tạo máy móc và sản phẩm bằng kim loại
Ngành công nghiệp khai thác quặng hóa học và công nghiệp hóa học
Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
Ngành công nghiệp khai thác, chế biến gỗ và lâm sản
Ngành công nghiệp thủy tinh, sành sứ và đồ đá
Ngành công nghiệp dệt, da, may, nhuộm
Ngành công nghiệp thực phẩm
Ngành công nghiệp in và sản xuất các loại văn hóa phẩm
Ngành công nghiệp khác
Hầu hết các hoạt động sản xuất của công nghiệp đều gồm hai giai đoạn cơ bản là:
Xem thêm : Nghỉ trước sinh 4 tháng có được hưởng thai sản không?
Tác động vào đối tượng lao động nguyên liệu
Chế biến nguyên liệu tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dụng
Trong cả hai giai đoạn đó đều có sự tham gia của tư liệu sản xuất mà chủ yếu là máy móc thiết bị. Đặc điểm chủ yếu của công nghiệp được biểu hiện trong việc áp dụng rộng rãi các hình thức phân công có tính chất kỹ thuật, trong sản xuất, sản phẩm có sự tồn tại của hệ thống máy móc, tính liên tục của quá trình sản xuất. Sản xuất công nghiệp có tính chuyên môn hóa, đòi hỏi nhiều kĩ thuật và lao động trên một diện tích nhất định để tạo ra khối lượng sản phẩm.
Nhân tố ảnh hưởng quyết định đến năng suất sản xuất công nghiệp là sự tiến bộ của khoa học – kĩ thuật. Nhân tố này làm xuất hiện các ngành sản xuất công cụ lao động mới, xuất hiện nhiều ngành hiện đại như: chế tạo công cụ, sản xuất phương tiện tự động hóa, sản xuất máy vô tuyến, sản xuất vật liệu cao cấp.
Nhân tố thứ hai là mối quan hệ gắn bó lâu đời giữa hai ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế là ngành nông nghiệp và công nghiệp, mối quan hệ này quyết định đến trình độ và tính chất phát triển của công nghiệp. Nông nghiệp không chỉ cung cấp lương thực, thực phẩm, lao động, nguyên liệu cho công nghiệp mà còn là thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp.
Nhân tố thứ ba là nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, cơ cấu ngành công nghiệp phụ thuộc vào tình hình tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Nhân tố này tạo điều kiện tiên quyết hay hạn chế việc hình thành các ngành công nghiệp. Một đất nước càng dồi dào nguồn tài nguyên thiên nhiên thì cơ cấu công nghiệp của nước này càng phong phú, dễ dàng hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn.
Cuối cùng là nhân tố liên quan đến con người – xã hội. Điều kiện lịch sử kinh tế xã hội sẽ để lại những đặc điểm riêng về cơ cấu công nghiệp mỗi nước, đồng thời cũng tạo ra những thay đổi cơ cấu công nghiệp trong thời kỳ. Phong tục, tập quán, truyền thống sản xuất công nghiệp ở mỗi nước cũng được thể hiện rõ trong nét cơ cấu. Nhân tố này tác động gián tiếp qua nhu cầu và là nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư.
Ngoài ra, trình độ phân công lao động quốc tế, tính đa dạng nhu cầu, sự khác nhau về điều kiện thuận lợi trong sản xuất ở các nước đòi hỏi các nền kinh tế cần có sự trao đổi với nhau. Chính vì vậy mối liên kết kinh tế giữa các nước, mở rộng thị trường thế giới cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến độ phát triển công nghiệp.
Mỗi ngành nghề đều có những đặc tính riêng biệt của nó, và chính những đặc tính này là nhân tố nói lên vai trò của một ngành. Vì vậy chúng ta cần nhận thức được sự khác biệt giữa ngành công nghiệp với các ngành khác để từ đó hiểu được những giá trị riêng biệt mà ngành công nghiệp mang đến cho hoạt động kinh tế.
Đầu tiên là công nghiệp khác với nông nghiệp ở chỗ: trong quá trình tạo ra sản phẩm của ngành nông nghiệp, sức lao động của con người chỉ làm tối ưu những giá trị sẵn có của sản phẩm nông nghiệp, còn công nghiệp thì có thể làm thay đổi cơ cấu, tính chất, hình thái và công dụng của sản phẩm.
công nghiệp đã góp phần tích cực vào việc tăng nguồn thu ngân sách cho nhà nước, tăng tích luỹ cho các doanh nghiệp và thu nhập cho nhân dân.
Quá trình phát triển công nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường cũng là quá trình tích luỹ năng lực khoa học và công nghệ của đất nước. Phát triển công nghiệp góp phần đào tạo, rèn luyện và nâng cao chất lượng nguồn lao động, đội ngũ chuyên gia khoa học và công nghệ, đội ngũ lãnh đạo, quản lí kinh doanh công nghiệp. Như vậy, công nghiệp góp phần tích luỹ cho nền kinh tế, bao gồm nguồn tài chính, nhân lực và trình độ khoa học công nghệ, những nhân tố cơ bản của sự phát triển. Sự phát triển công nghiệp là thước đo trình độ phát triển, biểu thị sự vững mạnh của nền kinh tế ở một quốc gia.
Ngoài ra, phương pháp tổ chức, quản lý kiểu công nghiệp cũng được áp dụng cho nhiều ngành kinh tế khác và đều đạt được kết quả tốt đẹp. Ngay chính những người công nhân được rèn luyện trong công nghiệp cũng có tác phong làm việc giờ giấc hẳn hoi, nghiêm chỉnh, khác hẳn với nghề làm nông.
Thứ nhất là đối với nông nghiệp, mối gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp là điều mà chúng ta không thể chối bỏ khi xét đến sự ảnh hưởng giữa các ngành nghề với nhau. Công nghệ không chỉ giữ vai trò là nguồn cung các yếu tố đầu vào như: phân bón hóa học, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu, máy móc, phương tiện vận chuyển… giúp tăng năng suất mà công nghiệp còn phụ trách hỗ trợ đầu ra cho nông nghiệp. Phần lớn các sản phẩm của nông nghiệp đều là sản phẩm thô, nhờ những quy trình giàu tính chuyên môn của công nghiệp mà sản phẩm của nông nghiệp được đưa vào chế biến, bảo quản, dự trữ..úp giá trị của sản phẩm được nâng cao, đồng thời công nghiệp cũng chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp. Mặt khác, công nghiệp còn góp phần trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, tạo điều kiện phát triển cho ngành này.
phát triển không ngừng để đáp ứng cho những nhu cầu trong sản xuất công nghiệp. Mối tương tác giữa hai ngành này là mối tương tác đôi bên cùng có lợi, cùng thúc đẩy nhau phát triển.
Ngoài ra, những sản phẩm tiên tiến của công nghiệp chính là chìa khóa bổ trợ và thúc đẩy cho những ngành kinh tế khác phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như: ngành giao thông vận tải, ngành thông tin liên lạc, thương mại, dịch vụ, giáo dục, y tế…
Dưới sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, năng suất lao động nông nghiệp tăng lên tạo điều kiện dịch chuyển lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp mà vẫn không làm ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp. Sự phát triển của công nghiệp làm mở rộng thêm nhiều ngành sản xuất mới, khu công nghiệp mới, là điều kiện để thu hút đông đảo lao động trực tiếp (chủ yếu là thu hút lao động từ nông thôn), gián tiếp tạo thêm nhiều việc làm mới ở các ngành liên quan.
Hoạt động công nghiệp còn làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn. Chính công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế của nông thôn, làm cho nông thôn nhanh chóng bắt nhịp được với đời sống đô thị. Nhờ đó mà tình trạng di cư tự phát dẫn đến các vấn đề về chất lượng cuộc sống, ô nhiễm, ùn tắc giao thông.. bùng nổ dân số ở các thành phố lớn cũng được giảm bớt.
4.1. G7 là gì? Nhóm G7 là diễn đàn của 7 quốc gia có nền kinh tế phát triển lớn nhất thế giới, bao gồm Pháp, Đức, Italy, Nhật Bản, Mỹ, Anh và Canada, các nhà lãnh đạo chính phủ những nước này gặp gỡ nhau hàng năm để bàn về kinh tế quốc tế và các vấn đề tiền tệ. Đây là 7 nước gương mẫu đáng để những quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển học hỏi kinh nghiệm điều hình nền kinh tế quốc gia.
4.1. Thành tựu phát triển công nghiệp của một số nước G Nhật Bản: vào thời kì tái thiết sau chiến tranh (1946 – 1948), Chính phủ Nhật Bản tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành điện, sắt thép và đóng tàu. Từ 1949 – 1960, Nhật Bản đẩy mạnh xuất khẩu tàu biển, đồ điện tử, xe máy, ô tô…, tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 13,5% – 15,9%. Thời kỳ tăng trưởng ổn định (1960 – 1970), Nhật Bản hướng về xuất khẩu máy móc, ưu tiên những ngành có hàm lượng trí tuệ cao, sử dụng ít nguyên nhiên liệu và lao động sống như: sản xuất máy tính điện tử, máy bay, robot, mạch tổ hợp, vật liệu compozit, thiết bị thuỷ điện, thiết bị liên lạc, thiết bị học tập, thiết bị tự động hoá, thiết bị công nghiệp đồng bộ, dịch vụ thu thập, xử lý và tryền thông… Từ 1986 đến nay, công nghiệp Nhật Bản không ngừng đi lên, biến Nhật Bản từ một quốc gia nông nghiệp nghèo thành đất nước có nền kinh tế đứng thứ ba thế giới với tỷ trọng ngành công nghiệp là khoảng 30,1% (2017).
Vương quốc Anh: vào giữa thế kỉ thứ XVIII, nước Anh mở đầu cuộc cách mạng công nghiệp với nội dung chủ yếu là chuyển từ lao động thủ công sang lao động cơ khí. Nền công nghiệp nước Anh đi đầu thế giới với những phát minh kĩ thuật đầu tiên như: Abraham Draby phát minh lò cao (1709), Hargreaves phát minh máy xe sợi Jenny (1764), Samuel Morse nghĩ ra mã Morse (1837), Nobel phát minh ra thuốc nổ (1867), Bell thực hiện cuộc gọi điện thoại đầu tiên năm 1875, Nikolaus Otto sáng chế động cơ xăng bốn kì (1877),… Đến nay Vương quốc Anh đã trở thành đất nước có nền kinh tế lớn thứ năm trên thế giới, là một trong những quốc gia có nền công nghiệp hàng đầu thế giới với tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp trong GDP là khoảng 17,49% (2021).
chủ sản xuất của các ngành công nghiệp nội địa. Một số tập đoàn công nghiệp tư nhân trong nước có tiềm lực tốt hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo đã hình thành và phát triển. Điển hình như trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp ô tô là các Tập đoàn VinGroup, Trường Hải, Thành Công; trong lĩnh vực sản xuất chế biến sữa và thực phẩm là Vinamilk, TH; trong lĩnh vực sắt thép, kim khí là Tập đoàn Hoa Sen, Tập đoàn Hòa Phát, Công ty TNHH Hòa Bình Minh, Công ty thép Pomina, Công ty CP thép Nam Kim… góp phần tích cực trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động và nâng cao đời sống của nhân dân. Bình quân mỗi năm, ngành công nghiệp tạo thêm khoảng 300 việc làm.
Xem thêm : Thai sinh hóa là gì? Mẹ cần biết vì sao lại xảy ra hiện tượng này
4.2. Hạn chế Tuy nhiên, dù đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng một số điểm nghẽn then chốt của công nghiệp vẫn chưa được khắc phục, .hững hạn chế, tồn tại của công nghiệp Việt Nam chủ yếu gồm:
cũng chưa tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia, chủ yếu tham gia vào khâu gia công, lắp ráp. Phần lớn các mặt hàng công nghiệp của Việt Nam có hàm lượng công nghệ thấp, ngoại trừ hàng điện tử chủ yếu do khu vực FDI nắm giữ. Số lượng sản phẩm công nghiệp chủ lực Việt Nam có lợi thế so sánh đang có xu hướng giảm.
Ngành công nghiệp phát triển thiếu gắn kết chặt chẽ đã ảnh hưởng đến việc phát huy tối đa lợi thế của các ngành kinh tế khác đặc biệt là nông nghiệp. Trong các chính sách phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, trọng tâm là việc cơ khí hóa nông nghiệp và phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Đối với việc cơ khí hóa nông nghiệp, theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mức độ trang bị động lực cho nông nghiệp của Việt Nam trung bình đạt 1,6 mã lực (HP)/ha canh tác, thấp hơn nhiều so với Thái Lan (4 HP/ha), Trung Quốc (8 HP/ha), Hàn Quốc (10 HP/ha).
5.1. Hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ kém phát triển Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ sản xuất chưa cao, rất khó khăn tiếp cận và đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Ngoài ra, việc sản xuất được các linh phụ kiện chi tiết này cũng là vấn đề khó khăn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao trình độ sản xuất, trình độ công nghệ trong khi tiềm lực chưa đủ mạnh. Trên thực tế, bên cạnh các điều kiện khác như trình độ công nghệ, vốn, nguồn nhân lực thì doanh nghiệp còn phải đạt được các chuẩn mực quốc tế về quản trị sản xuất. Việc các tập đoàn đa quốc gia thường sử dụng nhà thầu phụ cùng quốc tịch cũng là rào cản lớn trong phát triển công nghiệp hỗ trợ, thậm chí các doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp, sản xuất sản phẩm đơn giản cũng là rào cản đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Việc phụ thuộc phần lớn linh kiện và phụ tùng nhập khẩu đã làm cho giá trị gia tăng do ngành công nghiệp chế biến chế tạo rất thấp so với các quốc gia trong khu vực.
5.1. Chưa hình thành được các Tập đoàn công nghiệp có quy mô tầm cỡ khu vực Các Tập đoàn công nghiệp lớn đóng vai trò là đầu mối trong việc đổi mới, phát triển sản phẩm, đảm bảo nguyên liệu, định vị sản xuất, chuyển giao thông tin và công nghệ, tổ chức hậu cần vận chuyển và thực hiện marketing, đẩy mạnh tiêu thụ. Các doanh nghiệp dẫn dắt trong từng chuỗi giá trị đóng vai trò quan trọng: họ kiểm soát mặt hàng nào được sản xuất, nơi sản xuất, người sản xuất, số lượng, giá cả và theo quy trình nào. Nếu công nghiệp Việt Nam không hình thành được các tập đoàn công nghiệp có qui mô khu vực và toàn cầu ở hạ nguồn, nền kinh tế sẽ thiếu tác động lan tỏa để phát triển.
5.1. Mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế Mối liên kết phát triển giữa các ngành theo hướng hợp tác chuyên môn hoá phù hợp với cơ chế thị trường chưa được hình thành. Nhiều doanh nghiệp đầu tư khép kín, chưa phối hợp năng lực sẵn có với nhau để tăng nội lực cho ngành và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Điều này vừa làm tăng chi phí đầu tư cho sản xuất, vừa gây lãng phí năng lực chung của toàn ngành, tạo ra những cạnh tranh không đáng có giữa các doanh nghiệp trong ngành. Mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa còn lỏng lẻo. Trong mỗi một chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp Việt chỉ tham gia ở những khâu tạo giá trị thấp. Số lượng doanh nghiệp nội địa cung ứng cho các doanh nghiệp FDI và chuỗi cung ứng tại Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp quan trọng như sản xuất, lắp ráp ô tô, điện tử, máy công nghiệp… Khó khăn khi thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI một phần do số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu chất lượng, có khả năng cung ứng cho doanh nghiệp FDI, nhà cung cấp chuỗi vệ tinh còn rất ít ỏi. Công nghệ sản xuất, hệ thống quản lý, chủng loại sản phẩm cung ứng còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu cao của khách hàng. Thiếu các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực, thúc đẩy liên kết từ Chính phủ và các cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp. Mối liên kết, trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam và doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp vệ tinh còn hạn chế.
5.1. Huy động vốn tài nguyên chưa hiệu quả Trừ một số loại khoáng sản có tài nguyên, trữ lượng lớn, phù hợp với khai thác quy mô công nghiệp như dầu khí, than (49 tỷ tấn), bôxít (6,85 tỷ tấn), titan (650 triệu tấn khoáng vật nặng), apatit (2,6 tỷ tấn), đất hiếm (21 triệu tấn), đá hoa trắng (35 tỷ tấn)… Còn lại đa phần các loại khoáng sản có quy mô tài nguyên trữ lượng thuộc loại vừa và nhỏ, phân tán, điều kiện khai thác phức tạp, không phù hợp với đầu tư quy mô lớn, hiện đại. Việc cấp giấy phép khai thác, chế biến khoáng sản của các địa phương những năm gần đây gia tăng lớn, chưa chú trọng nhiều đến tiêu chí năng lực, công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, các điều kiện đảm bảo sau khi cấp giấy phép..à chỉ mới quan tâm đến các khoản đóng góp cho ngân sách địa phương…. Điều này dẫn tới tình trạng lãng phí tài nguyên. Một số mỏ có qui mô lớn như mỏ sắt Thạch Khê, cromit Cổ Định… chưa được huy động kịp thời, tiến độ triển khai kéo dài chưa tận dụng hiệu quả để đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước.
5.1. Những nguyên do khác Ngoài các nguyên nhân chính được nêu trên, những hạn chế tồn tại trong nghành công nghiệp Việt Nam còn là do:
Thời gian qua, tuy nền công nghiệp nước ta có phát triển nhưng lại không đủ đáp ứng mục tiêu biến Việt Nam trở thành một đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, năm 2021, theo Bộ trưởng Công thương Nguyễn Diên Hồng, định hướng phát triển công nghiệp giai đoạn 2021 – 2026 cần một số giải pháp trọng tâm như sau:
Thứ nhất: Chú trọng phát triển chiều sâu công nghiệp để tạo đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, và sức cạnh tranh. Tận dụng tối đa lợi thế đất nước đang trong thời kỳ dân số vàng, khai thác triệt để trình tự của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, và lợi thế thương mại khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp nền tảng như công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp vật liệu, hóa chất, cơ khí chế tạo, chế biến và điện tử.
Quyết định 486-TCTK/CN Bản qui định việc phân ngành cụ thể trong công nghiệp và bảng mục lục ngành nghề cụ thể trong công nghiệp.
Tin “Sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2021 duy trì tốc độ tăng trưởng khá”, Bộ Công Thương Việt Nam.
Tin “Chính sách phát triển công nghiệp của một số quốc gia”, Bộ Công Thương Việt Nam.
Lịch sử thế giới cận đại, Vũ Dương Ninh – Nguyễn Văn Hồng, Nhà xuất bản Giáo dục.
Aaron O’Neill, tin “Distribution of GDP across economic sectors in the United
Kingdom 2021” ngày 19/01/2023, Statista.
Cục thống kê lao động Mỹ (U. BUEAU OF LABOR STATISTICS).
Sở văn hóa IOWA, bài đọc “Rise of industrial america, 1876-1900”.
Tổng cục thống kê Việt Nam, gso.gov.
Hội nghị kết nối công nghiệp hỗ trợ – Đà Nẵng 2022, báo Lao động.
Báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp, Bộ Công thương Việt Nam.
Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công thương Việt Nam, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp
This post was last modified on 13/01/2024 06:17
Con số may mắn hôm nay 23/11/2024 theo năm sinh: Nhặt TIỀN từ con số…
Tử vi thứ bảy ngày 23/11/2024 của 12 con giáp: Tuổi Thìn chán nản, tuổi…
Vận may của 4 con giáp đang ngày càng xuống dốc. Cuối tuần này (23-24/11),…
Con số cuối cùng trong ngày sinh dự đoán con người sẽ GIÀU CÓ, sống…
Cuối tuần này (23-24/11), 4 con giáp sẽ gặp nhiều may mắn và thành công…
Tử vi hôm nay – Top 3 con giáp thịnh vượng nhất ngày 22/11/2024