Nhận biết dấu hiệu sốc phản vệ khi truyền dịch

Sốc phản vệ có thể xuất hiện ngay lập tức hoặc sau 30 phút khi sử dụng thuốc, chất lỏng, xét nghiệm, bị ong đốt hoặc ăn thức ăn lạ. Nhận biết sớm các dấu hiệu sốc phản vệ là cần thiết để cấp cứu nhanh chóng, kịp thời, tránh tử vong do suy hô hấp cấp và tụt huyết áp.

1. Dấu hiệu lâm sàng của sốc phản vệ

Sốc phản vệ khá đa dạng, thay đổi tùy theo mức độ sốc, mức độ nhạy cảm của từng cơ thể, số lượng và tốc độ hấp thu của kháng nguyên hoặc chất lạ vào cơ thể.

Các dấu hiệu sốc phản vệ dễ nhận thấy đầu tiên là: bồn chồn, khó thở, hốt hoảng, phù thanh quản, suy tim cấp, nhịp tim nhanh, suy sụp. Thời gian sốc phản vệ kéo dài từ vài giây đến 30 phút, tốc độ sốc càng nhanh thì tiên lượng càng xấu.

2. Diễn biến của sốc phản vệ

Diễn biến của sốc phản vệ được chia thành 3 cấp độ: nhẹ, trung bình, nặng với các triệu chứng và dấu hiệu khác nhau.

sốc phản vệ nhẹ

Với lo lắng, đau đầu, sợ hãi, chóng mặt. Có trường hợp nổi mề đay, phát ban, buồn nôn hoặc nôn, phù mạch, ho, tê các ngón tay, khó thở, đau quặn bụng, mệt mỏi và tiểu tiện không tự chủ. Nghe phổi có ran, ran giống hen phế quản, tiếng tim không rõ.

Huyết áp thấp, nhịp tim nhanh (130-150 nhịp/phút), đôi khi ngoại tâm thu.

Sốc phản vệ vừa phải

Với các biểu hiện hoảng loạn, chóng mặt, sợ chết, ngứa ran, nổi mề đay khắp nơi, khó thở, có khi hôn mê, co giật, chảy máu cam, chảy máu dạ dày, ruột.

Khám thấy da bệnh nhân tím tái, môi thâm, niêm mạc tím tái, đồng tử giãn.

Nhịp tim yếu, mạch nhỏ, khó bắt, không đo được huyết áp. Sốc phản vệ nghiêm trọng

Sốc phản vệ xảy ra trong vài phút đầu tiên với tốc độ cực nhanh, khiến bệnh nhân hôn mê, da nhợt nhạt, ngạt thở, co giật, huyết áp không đo được và tử vong trong vòng vài phút sau một giờ.

Nếu đo áp lực tĩnh mạch trung tâm và áp lực tắc động mạch phổi thì cả hai đều thấp. Sốc phản vệ ở giai đoạn này biểu hiện rõ tình trạng thiếu oxy, giảm thể tích tuần hoàn dẫn đến nhiễm toan lactic và giảm sức co bóp cơ tim.

Sốc giảm thể tích trong sốc phản vệ là hiện tượng giãn mạch, mất máu ra các khoang ngoài mạch và giảm khả năng co bóp của cơ tim. Do đó, sơ cứu sốc giảm thể tích là chìa khóa cho sốc phản vệ. Trong nhiều trường hợp, sốc phản vệ phát triển với tốc độ vừa phải. Người bệnh có các phản ứng như nóng rát và ngứa khắp người, mệt mỏi, ù tai, ngứa mũi, đỏ mắt, ho khan, chảy nước mắt, khó thở, đau quặn bụng…

Khám có thể phát hiện: sung huyết da, phù mí mắt và tai, phát ban, mày đay, viêm kết mạc dị ứng, ran nổ, ran phổi, viêm mũi, nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, tụt huyết áp. Sau đó đến các biểu hiện: ý thức mờ hoặc hôn mê, đồng tử không phản ứng với ánh sáng.

Đặc biệt, các biến chứng muộn xảy ra sau sốc phản vệ như viêm cầu thận, viêm cơ tim dị ứng, viêm thận. Những biến chứng này có thể dẫn đến tử vong.

Có trường hợp sốc phản vệ đã được điều trị nhưng 1 đến 2 tuần sau lại lên cơn hen phế quản, phù mạch, mày đay tái phát và đôi khi là bệnh chất tạo keo như lupus ban đỏ hệ thống, viêm hạch quanh động mạch…

3. Nhận biết sốc phản vệ khi truyền dịch

Trong quá trình truyền dịch tại cơ sở y tế hoặc tại nhà, bệnh nhân có thể bị sốc truyền dịch, các triệu chứng dễ nhận biết như vã mồ hôi, rét run, mặt tím tái, khó thở, mạch nhanh…

Khi người bệnh có các biểu hiện trên phải lập tức ngừng truyền, ủ ấm ngay cho người bệnh và báo cho thầy thuốc có trách nhiệm để điều tra nguyên nhân sốc và có hướng xử lý. Dưới đây là các trường hợp cụ thể và cách xử lý an toàn:

Truyền dịch không chảy

Có thể là do:

Kim bị lệch, lỗ kim bị ép vào thành mạch, cần điều chỉnh lại kim và định vị lại kim. Bắt mạch, thao tác bằng cách vuốt nhẹ đường hồi của tĩnh mạch để lấy máu. Tắc kim: Gập tạm thời 1-2 đoạn của dây truyền dịch, sau đó nhanh chóng thả ra, dịch truyền sẽ ép kim ra. Nếu không, kim nên được thay thế. Chỗ tiêm bị sưng

Do việc tiêm được thực hiện bên ngoài thành mạch hoặc góc vát của kim không đủ sâu vào trong lòng nên phải tiêm lại hoặc tiêm ở nơi khác. Đặc biệt, nếu dung dịch ưu trương thoát ra ngoài thì phải ngừng truyền ngay.

phù phổi

Thường xảy ra ở những người bị cao huyết áp, suy tim. Nguyên nhân của biến chứng này là do truyền dịch quá nhanh với số lượng nhiều, có biểu hiện như khó thở dữ dội, tức ngực, mặt tím tái…

Khi gặp vấn đề này, cần dừng ngay việc truyền dịch và thông báo cho bác sĩ để xử lý.