Đặc điểm của phương pháp luận biện chứng duy vật

Video đặc điểm của phép biện chứng duy vật

1. Khái niệm duy vật biện chứng

Mác đã kế thừa những tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel và học thuyết duy vật của Ludwig Andreas von Feuerbach và phát triển phương pháp luận này. Các nhà triết học Mác – Lênin coi phương pháp duy vật biện chứng là cơ sở triết học của hệ tư tưởng của mình. Triết học Mác là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, là trái tim của thế giới quan, phương pháp luận của hệ tư tưởng giai cấp công nhân, là công cụ nhận thức đắc lực để giai cấp công nhân nhận thức, hiểu rõ việc cải tạo thế giới, xóa bỏ áp bức, khai thác. và sự bất công; giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những đóng góp to lớn của C. Mác trong lĩnh vực triết học là tạo ra sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; làm cho triết học trở thành thế giới quan, là phương pháp luận khoa học và cách mạng để giải phóng giai cấp công nhân và những người lao động trên toàn thế giới. Trong lịch sử triết học duy vật trước C. Mác chứa đựng nhiều cốt lõi duy lý. Nhưng do hạn chế của điều kiện lịch sử – xã hội và trình độ phát triển của khoa học, nên tính siêu hình, tính duy vật về tự nhiên và tính duy tâm về xã hội là nhược điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mac. Trong khi đó, phép biện chứng lại bị nhốt trong cái vỏ duy tâm thần bí của triết học cổ điển Đức, cụ thể là hệ thống duy tâm bảo thủ, phản động của G.V.Ph.Hegel. Để xây dựng một thế giới quan và một phương pháp luận triết học thực sự khoa học và cách mạng, đem lại cho loài người một công cụ nhận thức đắc lực, C.Mác đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của L. Feuerbach, phép biện chứng duy tâm của Hegel. Công lao của C.Mác trong việc cải tạo chủ nghĩa duy vật đã được V.I.Lênin khẳng định: “Trong khi nghiên cứu và phát triển sâu sắc chủ nghĩa duy vật triết học, C.Mác đã đưa học thuyết này đến mức hoàn thiện và mở rộng học thuyết này từ nhận thức thế giới tự nhiên sang nhận thức con người. xã hội”. Phép biện chứng là một đóng góp quan trọng và không thể phủ nhận của C. Mác. C. Mác đã chủ tâm nghiên cứu phép biện chứng ngay từ khi còn nhỏ. Trong khi thừa nhận những cốt lõi duy lý, C.Mác nhấn mạnh thế giới quan duy tâm và đảo ngược, bản chất bảo thủ và phản động, sự bất lực trước các vấn đề xã hội và lịch sử trong phép biện chứng của G.V. Ph.Hegel. C. Mác đặt ra yêu cầu phải vận dụng phép biện chứng duy vật để phân tích các vấn đề lịch sử xã hội. Theo đó, phép biện chứng duy vật của C.Mác khác với phép biện chứng duy tâm của G.V.Ph.Hegel về chất. Như C. Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác về cơ bản với phương pháp của Hê-ghen, mà còn phản đối mạnh mẽ phương pháp đó. (2). Tạo ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là cống hiến vĩ đại chưa từng có của C.Mác trong lịch sử triết học. C. Mác đã mang đến cho nhân loại vũ khí tối tân là lý luận sắc bén, công cụ nhận thức tuyệt vời.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học; là khoa học về những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Mác-Lênin là triết học duy vật, vì triết học này coi ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não con người, nhiệm vụ của bộ não con người là phản ánh giới tự nhiên. Phản ánh có tính biện chứng, vì thông qua nó con người nhận thức được những mối liên hệ qua lại chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất; đồng thời nhận thức được rằng sự vận động và phát triển của thế giới là kết quả của những mâu thuẫn tồn tại trong thế giới đó đang vận động.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng – đây là hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng.

Đặc điểm của phương pháp duy vật biện chứng là xem xét một sự vật, hiện tượng ở trạng thái luôn biến đổi và xem xét sự vật, hiện tượng đó trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.

Đặc điểm Của Phương Pháp Luận Biện Chứng Duy Vật
Đặc điểm Của Phương Pháp Luận Biện Chứng Duy Vật

2. Khái quát nguyên lý phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Phương pháp luận duy vật biện chứng được coi là những nguyên tắc khởi đầu định hướng cho các chủ thể xác định phạm vi, phương pháp, cách thức và phương tiện tác động nhằm tạo ra sự biến đổi phù hợp, hiệu quả. Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng để nhận thức và xử lý mối quan hệ lớn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là góp phần định hướng phát triển đất nước bền vững.

Sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã tạo ra bước ngoặt trong triết học, một trong những biểu hiện nổi bật của cuộc cách mạng này là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật trở thành cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận khoa học, vì nó là hệ thống lý luận phản ánh các mối liên hệ và quá trình biến đổi của bản thân thế giới hiện thực, trên cơ sở các kết quả khoa học đã được đúc kết, kết hợp với sự tổng kết, khái quát của nhân loại. các hoạt động. Phương pháp luận của phép biện chứng là những kết luận rút ra từ việc khảo sát những mối liên hệ của sự vật, quá trình xuất hiện và phát triển cụ thể của chúng, “những mặt liên hệ, liên hệ, vận động, sinh, diệt của sự vật”. Vì vậy, phương pháp luận duy vật biện chứng được coi là những nguyên tắc khởi đầu định hướng cho các chủ thể xác định phạm vi, phương pháp, con đường, phương tiện tác động nhằm tạo ra sự thay đổi phù hợp, hiệu quả.

Những nguyên lý cơ bản của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng cụ thể chúng tôi sẽ phân tích ở các phần sau…

3. Nguyên tắc khách quan

Với nguyên tắc này, nhận thức về sự vật phải xuất phát từ bản thân đối tượng, với những thuộc tính vốn có và những mối liên hệ bên trong của nó.

Vì vậy, ý thức phải đạt đến bản chất, quy luật chi phối sự vật. Đó là một quá trình khó khăn và phải trải qua nhiều giai đoạn, bởi vì bản chất biểu hiện qua vô số hiện tượng phong phú, đa dạng, phức tạp, luôn vận động và biến đổi.

Thông qua thực hành, thông qua thực tiễn, kết quả của hoạt động thực tiễn giúp ta đánh giá được những tri thức này có khách quan, đúng đắn hay không. V.I.Lê-nin đã viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm đầu tiên và cơ bản của nhận thức lý luận”(1).

Vì vậy, trong nhận thức cần tránh thái độ thụ động, chủ quan, bảo thủ, trì trệ, thiếu sáng tạo mà phải chủ động, tích cực, thông qua hoạt động thực tiễn của con người để nhận diện đúng các tính chất, các cấp độ của bản chất, các hệ thống quy luật. cai quản mọi thứ.

=> Như vậy, nguyên tắc khách quan là điều kiện cần thiết cho mọi tri thức khoa học. Nếu nhận thức và phương thức hoạt động của chủ thể không tuân theo quy luật khách quan, nếu hoạt động thực tiễn không tuân theo quy luật khách quan thì chúng ta sẽ phải gánh chịu những kết quả không mong muốn.

4. Nguyên lý toàn diện, quá trình phát triển và lịch sử

4.1 Nguyên tắc toàn diện

Theo V.I.Lê-nin đã viết rằng: “Muốn hiểu thật sự sự vật phải nhìn cho rộng, phải nghiên cứu mọi mặt, mọi mối liên hệ và những “mối quan hệ gián tiếp” của sự vật. mắc sai lầm, thiếu linh hoạt. Những chỉ dẫn trên đây của V.I.Lênin nhắc nhở mọi người trong nhận thức, để biết được sự thật của sự vật, phải xem xét sự vật trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố và các thuộc tính khác nhau của nó, phải xem xét sự vật, hiện tượng này trong mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác, kể cả giai đoạn trung gian của nó, phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn để thấy được vị trí, vai trò của nó trong mối quan hệ giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nhờ đó, xác định được những mối quan hệ chủ yếu cần giải quyết trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nguyên tắc toàn diện này cũng chỉ ra rằng một lập luận đúng trong mối quan hệ này hóa ra lại sai trong mối quan hệ khác, điều kiện này có thể không phù hợp hoặc có hại trong mối quan hệ khác.

4.2 Về nguyên tắc phát triển

Phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng, mối liên hệ là quá trình tác động qua lại – cái hợp thành “nguyên nhân cuối cùng của mọi sự vận động và biến đổi của sự vật”. Vì vậy, mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng là nguyên nhân vận động của chúng. Cũng chính vì mối liên hệ phổ biến mà trong thế giới khách quan luôn có xu hướng phát triển không ngừng. Vật chất không vận động để diệt vong mà tạo ra sự biến đổi (biến đổi) theo nhiều hướng khác nhau, trong đó có xu hướng vận động theo hướng đi lên, từ dưới lên trên, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn (gọi là sự phát triển).

Các chủ thể phải biết chuẩn bị các điều kiện cần thiết và phương thức tác động phù hợp để có được những thay đổi về chiều hướng phát triển. Đó là một quá trình phức tạp, bởi vì sự biến đổi phương hướng phát triển của hiện thực là một quá trình vận động có quy luật nội tại, diễn ra ở đó, là quá trình phủ định biện chứng, phủ định có kế hoạch, có kế hoạch.

4.3 Về nguyên tắc lịch sử

Xem xét hiện tượng xã hội, V.I.Lênin nhấn mạnh cần “xem xét vấn đề trên các quan điểm sau: một hiện tượng nhất định xuất hiện trong lịch sử như thế nào, đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đang ở đâu” . Từ quan điểm của sự phát triển này để xem làm thế nào nó đã trở thành bây giờ? “.

Phép biện chứng duy vật không chỉ là một học thuyết khoa học cho phép phản ánh chính xác các sự vật, hiện tượng mà còn là công cụ sắc bén để mổ xẻ, phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra những giải pháp thích hợp trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử. Chính nhờ công cụ mũi nhọn này mà chủ nghĩa Mác đã phát hiện ra các quy luật vận động của xã hội, thấy xã hội là một cơ thể sống, luôn vận động, biến đổi do các mối quan hệ bên trong của nó; thấy vai trò quyết định của điều kiện vật chất, cơ sở kinh tế mà còn thấy vai trò to lớn của kiến ​​trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng, văn hóa… Điều này đã vượt ra ngoài quan điểm duy tâm, siêu hình, biện chứng của tư tưởng trước đây. Tóm lại, điều đó cho thấy các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là nguyên tắc cơ bản để nhận thức các mối quan hệ lớn ở nước ta hiện nay.

5. Vận dụng vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Quy luật khách quan phải được tôn trọng; phát huy tính năng động chủ quan

Mục tiêu, chủ trương, chính sách đã nêu không được xuất phát từ ý chí chủ quan mà phải xuất phát từ thực tế, phản ánh nhu cầu chín muồi, tính tất yếu của đời sống vật chất ở từng thời điểm cụ thể. Khi bạn có mục tiêu đúng, hướng đi đúng và chính sách đúng; phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện.

Nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức và con người. Tôn trọng tri thức khoa học, lý luận phản ánh đúng thế giới khách quan, từ đó tạo ra khả năng xác định và hình thành mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Chống thái độ thụ động, ỷ lại và bảo thủ, trì trệ; đồng thời chú ý đến vai trò của lợi ích vì nếu phù hợp thì thúc đẩy, ngược lại thì cản trở, thậm chí cố tình bóp méo, bóp méo sự thật. Đấu tranh chống bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan. Căn bệnh này xuất hiện chủ yếu là do thiếu kiến thức, lý luận hoặc kém, hoặc lạc hậu; ít kinh nghiệm.

Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa có ý nghĩa phương pháp luận cơ bản, vừa là yêu cầu có tính nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn.

Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;… Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí”(4). Việc nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn là những khía cạnh cụ thể để thực hiện mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước chủ nghĩa xã hội ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Đại hội XII của Đảng xác định, một trong các nhiệm vụ tổng quát là: “Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;…”

Như vậy, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một trong những mối quan hệ lớn cần được quán triệt trong nhận thức cũng như giải quyết có hiệu quả trong thực tiễn. Việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ này cần bảo đảm nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển và lịch sử – cụ thể.

Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là những bộ phận quan trọng không thể thiếu, có quan hệ thống nhất, cùng tồn tại, có ảnh hưởng qua lại, vừa làm tiền đề vừa làm điều kiện cho nhau. Trong đó, xã hội muốn phát triển phải có tăng trưởng kinh tế để giải quyết các nhu cầu vật chất không thể thiếu của con người, mặt khác, tăng trưởng kinh tế thì mới có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Thực tế không thể có một nền văn hóa phát triển lành mạnh, phong phú và một xã hội tiến bộ, công bằng trên cơ sở một nền kinh tế yếu kém, suy thoái hay một nền kinh tế tăng trưởng nóng lấy số lượng tăng trưởng là thước đo duy nhất. Ngược lại, trong một xã hội mà đạo đức xuống cấp, tham nhũng, lãng phí cao, nhiều lao động ít học, tay nghề thấp, lâm vào tình trạng thất nghiệp, đói nghèo… thì cũng không thể có tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững. .