Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (Kỳ 1)

Pháp luật giữ vai trò, vị trí, có giá trị, thực hiện chức năng như thế nào trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật là một trong hai nội dung trọng tâm (cùng với cải cách tư pháp) xuyên suốt Nghị quyết số 27-NQ/TW, được thể hiện từ cách tiếp cận, các quan điểm, mục tiêu, trọng tâm, nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết này.

Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) một cách thiết thực, chất lượng, hiệu quả, đặc biệt là những nội dung liên quan đến pháp luật, hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, trước hết, cần nắm chắc, quán triệt đầy đủ những điểm mới của Nghị quyết về pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật trong giai đoạn mới. Đó là: 1) Nhận thức mới của Đảng ta về pháp luật, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; 2) Quan điểm tổng thể của Đảng ta về pháp luật, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Để góp phần triển khai thực hiện Nghị quyết, bài viết này làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên.

1. Nhận thức mới của Đảng ta về pháp luật, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhận thức mới của Đảng ta về pháp luật, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện khái quát ở nội dung cơ bản sau đây:

1.1. Trong cách tiếp cận mới đến pháp luật, hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật tại Nghị quyết số 27-NQ/TW

Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đưa ra cách tiếp cận mới về pháp luật, hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Đó là cách tiếp cận tổng thể, tích hợp, bao trùm, toàn diện về pháp luật, hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Cách tiếp cận tổng thể đó được thể hiện cụ thể ở các phương diện sau đây: Tiếp cận hệ thống; tiếp cận quyền lực, tiếp cận giá trị, đặc trưng.

Phương diện tiếp cận hệ thống đến pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật: Pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật là một hệ thống, do vậy, Nghị quyết số 27-NQ/TW tiếp cận đến pháp luật, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật với tư cách là một hệ thống tổng thể, bao trùm, toàn diện, bao quát từ khái quát đến cụ thể, tức là từ quan điểm, mục tiêu (mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể), trọng tâm đến nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật; từ nội dung đến hình thức, từ các ngành pháp luật vật chất đến các ngành pháp luật tố tụng, tổ chức bộ máy nhà nước; bao quát hết tất cả các lĩnh vực của pháp luật: Xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, ý thức và văn hóa pháp luật, nghiên cứu và đào tạo pháp luật, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế; từ tổ chức đến nhân lực pháp luật và các điều kiện bảo đảm; từ lý luận đến thực tiễn pháp lý. Nghị quyết số 27-NQ/TW tích hợp tất cả các thành tố đó của pháp luật, hệ thống pháp luật trong một tổng thể thống nhất.

Phương diện tiếp cận quyền lực đến pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phương diện quyền lực là một phương thức tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước dựa trên nền tảng pháp luật, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Nghị quyết số 27-NQ/TW giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước, tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước và pháp luật mà sự hiện diện tập trung, cao nhất của nó là Hiến pháp. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dựa trên chủ nghĩa hiến pháp của Việt Nam (chủ nghĩa lập hiến Việt Nam). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tất cả vì con người.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, ở một phương diện nhất định, pháp luật được đề cao hơn Nhà nước, ràng buộc Nhà nước, đứng trên Nhà nước, là nền tảng của việc tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Hiến pháp và pháp luật là một loại quyền lực được Nhân dân sử dụng để ràng buộc quyền lực nhà nước nói chung, các loại quyền lực nhà nước nói riêng. Bằng Hiến pháp, Nhân dân tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước, phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều đó thể hiện tư tưởng chính của pháp quyền.

Pháp quyền là cái lõi, cái trung tâm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trục trọng tâm của pháp quyền là nói về vai trò, vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là nói về quyền lực của pháp luật. Pháp quyền không đồng nhất với NNPQ. Nhà nước pháp quyền dựa trên pháp quyền, hay nói cách khác, pháp quyền là cơ sở, nền tảng của NNPQ.

Dưới dạng khái quát nhất, có thể hiểu pháp quyền là một phạm trù chính trị – pháp lý, là một chế độ, bao gồm các yếu tố cấu thành cốt lõi sau đây: (1) Pháp luật có hiệu lực tối thượng và thượng tôn pháp luật, không một ai được đứng trên pháp luật; (2) Quyền lực nhà nước bị giới hạn, bị kiểm soát và ràng buộc bởi pháp luật; (3) Mọi chủ thể trong xã hội, kể cả Nhà nước được điều chỉnh bởi pháp luật và đều phải tuân thủ pháp luật; (4) Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; (5) Pháp luật phải minh bạch, được công bố công khai, các vi phạm pháp luật được xét xử công bằng, theo trình tự, thủ tục chặt chẽ bởi cơ quan xét xử độc lập; (6) Công lý, quyền con người, quyền công dân được bảo đảm, bảo vệ; (7) Tư pháp độc lập.

Bản chất của pháp quyền nằm ở vai trò, vị trí, đặc trưng, giá trị, quyền lực của pháp luật và mối quan hệ của pháp luật với quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Tư tưởng cốt lõi mang tính bản chất của pháp quyền thể hiện ở việc Nhà nước thực hiện quyền lực của mình bằng pháp luật, nói cụ thể và chính xác hơn là bằng Hiến pháp và các đạo luật. Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước được thiết lập và thực thi dựa trên Hiến pháp và pháp luật, bằng Hiến pháp và pháp luật, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước được giới hạn bởi pháp luật, bởi quyền con người, quyền công dân. Theo đó, cần sử dụng pháp luật để kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước. Điều này nói lên tính chính danh, hợp hiến, hợp pháp của quyền lực nhà nước.

Pháp quyền và các nguyên tắc pháp quyền là những phạm trù có mối liên hệ nhưng không đồng nhất với nhau. Thuật ngữ “nguyên tắc/các nguyên tắc pháp quyền” được Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế, các tổ chức học thuật, các nhà nghiên cứu trên thế giới sử dụng như những tư tưởng chỉ đạo định hướng cho việc xây dựng mô hình NNPQ dân chủ, nhân quyền, quản trị tốt. Hiện nay, thuật ngữ nguyên tắc/các nguyên tắc pháp quyền cũng được ghi nhận chính thức trong văn kiện đại hội lần thứ XII và XIII của Đảng. Khi nói đến nguyên tắc pháp quyền là hàm ý nói về pháp quyền như một nguyên tắc tổng hợp để quản trị quốc gia, quản lý xã hội, sự thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Khi nói về các nguyên tắc pháp quyền là muốn nói về các nguyên tắc của pháp quyền với tư cách một phạm trù chính trị – pháp lý, một chế độ.

Khi xây dựng Nghị quyết số 27-NQ/TW, các nguyên tắc pháp quyền sau đây được tiếp nhận: (1) Nguyên tắc thượng tôn pháp luật (hay tính tối cao của pháp luật); (2) Nhà nước bị pháp luật ràng buộc và sử dụng pháp luật để quản trị quốc gia, vận hành xã hội theo pháp luật; (3) Mọi chủ thể trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật và phải tuân thủ pháp luật; (4) Pháp luật phải rõ ràng, công bằng, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được áp dụng một cách bình đẳng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân; (5) Pháp luật phải được xây dựng, giám sát thực thi và áp dụng công khai, công bằng, kịp thời và hiệu quả theo trật tự, thủ tục chặt chẽ; (6) Hoạt động tư pháp phải được thực hiện công khai, minh bạch, kịp thời, hiệu quả bởi các cơ quan tài phán độc lập, có đạo đức và năng lực.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, pháp luật là một loại quyền lực, hay nói cách khác, pháp luật có quyền lực. Nghị quyết số 27-NQ/TW đã thể hiện tư tưởng, quan điểm sử dụng pháp luật với tư cách là một loại quyền lực để tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước: Phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Khái niệm quyền lực pháp luật đã được nhân cách hóa (chủ thể hóa). Trong khái niệm đó đã có chủ thể thực hiện là Nhân dân hoặc Nhà nước, các cơ quan nhà nước được Nhân dân ủy quyền làm đại diện quyền lực của mình. Quyền lực của pháp luật là năng lực, khả năng và hiện thực tác động mang tính chất phổ quát, ràng buộc, bắt buộc chung của pháp luật thông qua các phương tiện pháp luật đến ý thức, hoạt động, hành vi của con người, các quá trình xã hội. Năng lực, khả năng và hiện thực tác động đó được thực hiện thông qua bản chất, vai trò, đặc trưng, giá trị, thuộc tính, nguyên tắc, chức năng, nội dung, nhiệm vụ của pháp luật, tính thượng tôn pháp luật, giá trị tối thượng của Hiến pháp, sự tôn trọng pháp luật và các phương tiện khác của pháp luật đến ý thức, hoạt động, hành vi của con người, đến các quá trình xã hội.

1.2. Trong giá trị, đặc trưng pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, từ phương diện giá trị, đặc trưng, nguyên tắc là tổng thể (tổ hợp) các giá trị, đặc trưng, nguyên tắc pháp quyền. Ở phương diện này, có thể hiểu Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một chế độ pháp quyền, một trật tự pháp quyền, một trạng thái phát triển của Nhà nước ta.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tồn tại, được hiện thực hóa, vận động và phát triển thông qua các giá trị, đặc trưng, nguyên tắc pháp quyền. Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quá trình làm sâu sắc, gia tăng các giá trị, đặc trưng, nguyên tắc pháp quyền.

Lần đầu tiên, Nghị quyết số 27-NQ/TW chỉ rõ 08 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là: 1) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; 2) Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 3) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; 4) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; 5) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; 6) Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; 7) Độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; 8) Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trong các đặc trưng nói trên, có đặc trưng về pháp luật, hệ thống pháp luật.

Pháp luật, hệ thống pháp luật là giá trị cốt lõi, đặc trưng, có nội hàm rất phong phú và gắn liền với những giá trị cốt lõi, đặc trưng khác của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; là nền tảng, phương thức thiết lập nên các mối quan hệ của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Pháp luật, hệ thống pháp luật là giá trị, đặc trưng xuyên suốt các tầng nấc, mức độ, nội dung, từ quan điểm, mục tiêu, trọng tâm đến nhiệm vụ và giải pháp của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

Pháp luật với tư cách là một giá trị cốt lõi, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện ở nội dung Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý nhà nước bằng Hiến pháp và pháp luật. Ở nghĩa này, pháp luật là nền tảng của tổ chức và hoạt động của Nhà nước, là phương thức (phương tiện) được Nhà nước sử dụng để quản trị quốc gia, quản lý xã hội. Pháp luật là phương thức văn minh để tổ chức và vận hành Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Nói đến pháp quyền hay NNPQ là nói đến vị trí thượng tôn của Hiến pháp và pháp luật. Trong kiến trúc thượng tầng có nhiều thành tố, nhưng với NNPQ thì Hiến pháp, pháp luật chiếm vị trí tối thượng. Nó là đặc trưng cơ bản, xuyên suốt của NNPQ – phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện đặc trưng thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong tổ chức và hoạt động của mình, trong quản lý xã hội ngay từ khi thành lập. Thượng tôn Hiến pháp cũng được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), 2013 như một đặc trưng cốt lõi: Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.

Hiến pháp quy định cấu trúc nhà nước, hình thức nhà nước, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, phương thức thực hiện quyền lực, quyền con người, quyền và tự do cơ bản của cá nhân. Những quy định của Hiến pháp là nền tảng cốt lõi nhất của đời sống nhà nước và xã hội, có hiệu lực cao nhất. Chính vì vậy, sự hiện diện của Hiến pháp và thượng tôn Hiến pháp là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nền dân chủ và NNPQ. Hiến pháp trao cho Nhà nước quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Ba loại quyền lực này gắn với pháp luật được ban hành trên nền tảng của Hiến pháp. Quốc hội không thể ban hành pháp luật nếu không dựa vào thẩm quyền, quy trình hiến định. Chính phủ không thể thi hành pháp luật trái với thẩm quyền và nội dung được quy định trong Hiến pháp và luật. Trong thực tiễn tổ chức, thực hiện, Tòa án không được xét xử, thực thi công lý trái với thẩm quyền, quy trình được quy định trong Hiến pháp, pháp luật.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, các hoạt động quản lý xã hội được thực hiện dựa trên pháp luật. Mỗi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và các lĩnh vực khác đều được quản lý và điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành. Pháp luật là căn cứ tổ chức, thực thi, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong mọi lĩnh vực. Tổ chức, thực thi, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước, quản trị quốc gia, quản lý xã hội bằng pháp luật để bảo đảm được lợi ích của Nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc, ngăn chặn sự thao túng của lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ và nhất là tình trạng tham nhũng. Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”.

Pháp luật là nền tảng của quan hệ xã hội. Các quy phạm pháp luật với tư cách là những quy tắc xử sự bắt buộc chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện tạo ra những mối quan hệ bình đẳng, minh bạch giữa những thành viên trong xã hội. Nhờ vào giá trị công bằng, minh bạch, lợi ích hài hòa, pháp luật giúp thiết lập quan hệ tin cậy, tôn trọng lẫn nhau giữa các cá nhân trong xã hội, từ đó tạo ra trật tự xã hội, trật tự pháp luật cần thiết cho sự phát triển bền vững.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, mọi vi phạm Hiến pháp, pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Pháp luật hiện hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quy định chế tài pháp lý đối với những vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thực tế, việc phát hiện và áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm pháp luật được thực hiện trong thời gian vừa qua cho thấy, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang hiện thực hóa ngày càng đầy đủ tính thượng tôn của Hiến pháp, pháp luật.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xây dựng và phát triển dựa trên các giá trị pháp quyền cơ bản, đó là: 1) Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; 2) Công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; 3) Bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước; 4) Bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; 5) Thực hiện nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các cam kết quốc tế của Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam khẳng định, bảo đảm, bảo vệ các giá trị xã hội, đạo đức tiến bộ về dân chủ, công bằng, công lý, bình đẳng, nhân đạo, tất cả vì con người; lấy con người là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước và của toàn bộ quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

1.3. Trong mối quan hệ của giá trị, đặc trưng pháp luật, hệ thống pháp luật với các đặc trưng khác của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền, như nói ở trên, là tổ hợp các giá trị, đặc trưng, nguyên tắc nhất định. Pháp luật với tư cách là một giá trị cốt lõi, đặc trưng, có mối quan hệ mang tính hệ thống với các đặc trưng khác của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Trong mối quan hệ này, pháp luật tương tác với các đặc trưng trên với tư cách là nền tảng, phương thức, phương tiện để ghi nhận, thể hiện, thực hiện và gia tăng các đặc trưng khác, còn các đặc trưng khác, ở một nghĩa nhất định, là đối tượng, chủ thể, nội dung của thể chế hóa. Cụ thể là:

– Pháp luật là nền tảng, đồng thời là phương thức, phương tiện để thể chế hóa cơ chế bảo đảm chủ quyền nhân dân, dân chủ và thực hành dân chủ, quyền làm chủ của người dân; thể chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; thể chế hóa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

– Pháp luật ghi nhận, công nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cơ chế giám sát, bảo đảm, thực hiện, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; quy định trách nhiệm của các thiết chế nhà nước, xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cơ chế xử lý vi phạm quyền con người, quyền công dân; cơ chế khắc phục, bồi thường kịp thời và công bằng thiệt hại do các hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân gây ra.

– Pháp luật thể hiện khái quát nhất, tập trung nhất ở Hiến pháp với tư cách là luật cơ bản của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất; mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp; mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý; quy định cơ chế bảo vệ Hiến pháp.

– Pháp luật thể chế hóa sự thống nhất của quyền lực nhà nước, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp; cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước; thể chế hóa tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; thể chế hóa quản trị quốc gia.

– Thể chế hóa cơ chế để Nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước; vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội trong kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước; cơ chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

– Thể chế hóa tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước khác, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội; quy trình, phương thức hoạt động của các cơ quan, tổ chức đó.

– Thể chế hóa sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và xã hội.

(Còn tiếp Kỳ II)

Theo Kiemsat.vn

GS.TS VÕ KHÁNH VINH

Quốc hội thông qua Luật Đất đai sửa đổi – Ảnh: Qh.vn