Luật an ninh mạng ra đời khi nào?

Luật An ninh mạng đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV (kỳ họp thứ 5) thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Luật An ninh mạng gồm 7 chương và 43 mặt hàng.

1. Sự cần thiết ban hành luật an ninh mạng

– Không gian mạng là lĩnh vực mới, tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội. Kể từ khi internet ra đời đã tạo ra rất nhiều tiện ích cho con người. Tuy nhiên, nó cũng mang lại những thách thức lớn. Không gian mạng đang trở thành “nơi trú ẩn an toàn” cho một loại tội phạm mới: “tội phạm mạng”. Hành vi trên không gian mạng có thể xâm hại độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bí mật nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

– Việt Nam nằm trong nhóm nước bị tấn công mạng nhiều nhất thế giới. Việt Nam đứng thứ 4 trong nhóm 10 quốc gia bị kiểm soát bởi mạng máy tính ngầm (máy tính kết nối Internet bị hack, bị nhiễm virus máy tính,…). Hậu quả của việc mất an ninh mạng để lại nhiều hệ lụy phức tạp, ví dụ như: website cảng hàng không bị tin tặc tấn công ảnh hưởng tới hoạt động điều hành bay và đe dọa an toàn bay; tài khoản ngân hàng của khách hàng bị đột nhập và rút hết tiền; sử dụng mạng xã hội để đăng, phát thông tin sai trái, bịa đặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức….

– Để đảm bảo an ninh mạng ngoài giải pháp kỹ thuật, cần phải có hành lang pháp lý cụ thể. Giải pháp kỹ thuật hiện nay không đủ để đối phó với tấn công mạng hiện đại, do trách nhiệm pháp lý chưa cụ thể, rõ ràng; biện pháp của các cơ quan chức năng chưa chủ động, chặt chẽ, đồng bộ. Do đó, việc xây dựng và ban hành Luật An ninh mạng xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của tình hình an ninh mạng trong nước, yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bí mật nhà nước, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của Hiến pháp năm 2013, cụ thể:

Một là, đáp ứng yêu cầu cấp bách của tình hình an ninh mạng trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội như: (1) Phòng ngừa, đấu tranh hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm chủ quyền an ninh quốc gia, kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự… (2) Phòng ngừa, ngăn chặn, ứng phó, khắc phục hậu quả của các hoạt động tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chống chiến tranh mạng; (3) Bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia và áp dụng các biện pháp cần thiết, tương xứng. Thứ hai, khắc phục những hạn chế cơ bản trong công tác bảo vệ an ninh mạng như: (1) Nhận thức giữa an ninh mạng và an toàn thông tin mạng còn chưa rõ ràng, dẫn đến một số tồn tại. Chồng chéo, trùng lặp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng giữa các sở, ngành chức năng; (2) Chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác bảo đảm an ninh mạng nên không đủ cơ sở pháp lý để các lực lượng chức năng đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.

Thứ ba, thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chỉ thị của Đảng về an ninh mạng.

Thứ tư, bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ năm, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế, vì nhiều nước trên thế giới đã ban hành luật an ninh mạng.

2. Ý nghĩa của việc ban hành Luật An ninh mạng

Trong tình hình hiện nay, việc ban hành Luật An ninh mạng là hết sức cần thiết, trên cơ sở cân nhắc nghiêm túc các ý kiến ​​hợp lý của các chuyên gia, nhà khoa học, cử tri và nhân dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Luật An ninh mạng ra đời đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong quá trình phát triển đất nước, trong đó chú trọng bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trên không gian mạng. Đặc biệt:

– Thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng; Phát triển và tăng cường quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet.

– Bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia và quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, trước thực tế không gian mạng đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và hiện diện trong hầu hết các hoạt động của con người. Với việc Luật An ninh mạng tăng cường bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng, các tổ chức, cá nhân hoạt động trong môi trường không gian mạng quốc gia sẽ được bảo đảm an toàn, lành mạnh và hạn chế tối đa. các yếu tố, nguy cơ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. – Trên thực tế, việc không quản lý được dữ liệu người dùng, dữ liệu quan trọng của quốc gia đã làm tổn hại đến lợi ích và an ninh quốc gia. Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và tội phạm sử dụng không gian mạng ngày càng nhiều để phá hoại an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, trong khi cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn trong điều tra, xác minh, truy tìm, quản lý các hành vi vi phạm này do toàn bộ dữ liệu đều được đặt ở nước ngoài.

– Tài khoản cá nhân sẽ được bảo vệ tốt hơn khi luật an ninh mạng được ban hành. Không có cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh mạng kiểm soát toàn bộ thông tin của người dùng mạng mà chỉ có thể yêu cầu bằng văn bản để phục vụ công tác điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng. Luật An ninh mạng không cấm hành vi sử dụng internet hay mạng xã hội (Facebook, Youtube, Google, Zalo,…) làm thông tin sai lệch. – Luật An ninh mạng phù hợp với thông lệ quốc tế, không cản trở hoạt động kinh doanh và không cản trở Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế. Thông qua việc xem xét các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994), Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), Hiệp định Thương mại về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) … Luật An ninh mạng được ban hành không vi phạm các cam kết quốc tế. Hiện nay, nhiều quốc gia đã ban hành luật an ninh mạng.

3. Phạm vi điều chỉnh của Luật An ninh mạng

Luật An ninh mạng quy định về hoạt động nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (Điều 1). 4. Các hành vi bị cấm trên không gian mạng

Các hành vi bị nghiêm cấm trên không gian mạng là:

– Sử dụng không gian mạng để thực hiện các hành vi sau đây:

Tổ chức, lợi dụng, cấu kết, xúi giục, tham nhũng, lừa dối, xúi giục, đào tạo người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (điểm b khoản 1 Điều 8).

Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới tính, phân biệt chủng tộc (điểm c, khoản 1, điều 8).

Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước, người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác (điểm d khoản 1 Điều 8) .

Mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin khiêu dâm, đồi trụy, tội phạm; xúc phạm đến thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (điểm đ khoản 1 Điều 8). Kích động, xúi giục, xúi giục người khác phạm tội (điểm đ khoản 1 Điều 8).

– Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, can thiệp, phá rối, ngăn chặn, làm tê liệt, phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia (khoản 2 Điều 8).

– Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông; phát tán chương trình máy tính can thiệp vào hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của người khác (khoản 3 Điều 8).

– Chống đối, cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công trái pháp luật hoặc vô hiệu hóa biện pháp bảo vệ an ninh mạng (khoản 4 Điều 8).

– Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm hại chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi (khoản 5 Điều 8). – Các hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về an ninh mạng (khoản 6 Điều 8).

Việc quy định các hành vi bị cấm nêu trên nhằm:

– Góp phần ngăn chặn các nguy cơ, hành vi có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng.

– Là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

– Là công cụ để các lực lượng chức năng thực hiện các biện pháp được giao.

5. Luật an ninh mạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân như thế nào?

Luật An ninh mạng được ban hành nhằm ngăn chặn mọi nguy cơ, hành vi có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng. Đặc biệt:

– Bảo đảm cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong môi trường không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, hạn chế thấp nhất các yếu tố, nguy cơ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức. , cá nhân.

– Bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu cá nhân trên không gian mạng. Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, thông tin cá nhân sẽ được phân tích, tổng hợp và hình thành mô phỏng con người thật trên không gian ảo, bao gồm thói quen, hành vi, dần dần hình thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư khác với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư do Nhà nước quản lý. Rồi chuyện cá nhân trở thành chuyện quốc gia.

– Đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài về quản lý, sự tương thích của các quy định pháp luật và trách nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện.

Không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, pháp luật an ninh mạng còn là cơ sở pháp lý chủ yếu, quan trọng để bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự và công ty, là công cụ để các lực lượng chức năng thực hiện các biện pháp được giao. .

6. Yêu cầu cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài khi cung cấp dịch vụ trên không gian mạng hoặc sở hữu hệ thống thông tin tại Việt Nam phải thiết lập cơ chế xác thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản. Con số có làm khó doanh nghiệp?

Việc quy định các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên không gian mạng hoặc sở hữu hệ thống thông tin tại Việt Nam phải thiết lập cơ chế xác thực thông tin là phù hợp với lộ trình chung của các biện pháp quản lý dân cư khi bỏ quản lý dân cư thông qua hộ khẩu. Đó là biện pháp nhiều nước đã áp dụng và cần thiết cho nước ta. Ví dụ:

Đối với Dữ liệu CMND, Hộ chiếu: Khi số CMND bị lộ, kẻ gian có thể lợi dụng để mua hóa đơn trực tuyến, thay đổi thông tin tài khoản số (tài khoản điện tử, tài chính), đặt phòng khách sạn hoặc các dịch vụ đặt hàng khác.

Do dữ liệu là số sổ BHXH: kẻ xấu có thể tra cứu thông tin về mức lương, quá trình tham gia BHXH. Nhờ đó biết được thông tin cơ bản, danh tính, địa chỉ và phương thức liên lạc. Có rất nhiều thứ có thể bị kẻ xấu lợi dụng thông tin có được để phạm tội.

Dữ liệu Thu nhập Tài chính: Mức thu nhập tài chính có liên quan trực tiếp đến vấn đề an ninh, tâm lý đau khổ khi mức thu nhập tài chính bị lộ. Kẻ gian có thể phân tích mức thu nhập để quảng cáo, gửi thông tin, nhờ tư vấn, hiển thị dịch vụ tương ứng với mức thu nhập.

Trình tự, thủ tục của các biện pháp bảo vệ an ninh mạng được quy định chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật, không thể lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, hoặc kiểm soát người dùng, kiểm soát quyền riêng tư.

Việc thực hiện các quy định về cách thức xác thực thông tin tài khoản số sẽ được Chính phủ cụ thể hóa bằng các văn bản cụ thể và sẽ có lộ trình thực hiện phù hợp với thực tế. 7. Tình trạng đăng tải thông tin xấu xa, độc hại, chống phá nhà nước, nhục mạ, vu khống trên không gian mạng?

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đang lợi dụng triệt để không gian mạng để thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Chúng lợi dụng triệt để các website, blog và các trang mạng xã hội để đăng tải các bài viết, hình ảnh, clip có nội dung xuyên tạc tình hình chính trị trong nước, xuyên tạc chế độ, hạ uy tín lãnh đạo. Đảng cộng sản Việt Nam, bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vu cáo Việt Nam vi phạm các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, dân tộc, gây chia rẽ trong quan hệ giữa nhân dân, chính quyền và Đảng, nhằm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lợi dụng các sự kiện chính trị, công việc nội bộ phức tạp để kêu gọi mít tinh, kích động nhân dân xuống đường biểu tình, gây rối an ninh, trật tự, gây bạo loạn, lật đổ chính quyền nhân dân sự quản lý. Trong năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018, các đối tượng đã sử dụng gần 3.000 trang thông tin điện tử, với hàng trăm nghìn tin bài chống phá Đảng, Nhà nước. Số lượng bài báo có nội dung xấu, phản động tăng cao vào thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước[2].

  1. Ở góc độ bảo mật, vấn đề kiểm soát thông tin xấu, độc, phản cảm trên mạng xã hội nảy sinh như thế nào?

Vấn đề kiểm soát thông tin xấu, độc, phản cảm trên mạng xã hội là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó chủ yếu là của Bộ Thông tin và Truyền thông.

Ở góc độ an ninh, Luật An ninh mạng đề cập các biện pháp xử lý thông tin có nội dung chống Đảng, Nhà nước, nhục mạ, vu khống trên không gian mạng. Đây là nội dung liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia, được quy định trong Bộ luật Hình sự về hình phạt và tội danh, trong khi Luật An ninh mạng chỉ quy định biện pháp phòng ngừa, xử lý tội phạm mạng hoạt động trên không gian mạng.

Hiện nay, thông tin xấu, độc, phản cảm chủ yếu tồn tại trên các trang mạng xã hội nước ngoài, nhưng các trang mạng này hầu như không chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam dẫn đến khó theo dõi, quản lý và điều tra các hành vi vi phạm. Thực trạng này bắt nguồn từ 3 bất cập chính:

– Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước về viễn thông, Internet và thông tin trên mạng còn thiếu và chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Đặc biệt là pháp luật về an ninh mạng, quản lý thuê bao, báo chí và an toàn thông tin mạng.

– Thứ hai, hạn chế của giải pháp công nghệ, việc đầu tư phương án kỹ thuật để ngăn chặn hiệu quả thông tin độc hại. – Thứ ba, sự bất hợp tác hoặc thiếu thiện chí của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet nước ngoài khi cung cấp thông tin qua biên giới vào Việt Nam.

[1] Theo kết quả biểu quyết của Quốc hội về dự án luật An ninh mạng, có 466 đại biểu biểu quyết tán thành (95,69%), trong đó 423 đại biểu tán thành (chiếm 86,86%), 15 đại biểu không tán thành (chiếm 3,08%). ), 28 đại biểu không biểu quyết (chiếm 5,75%).

[2] Bộ Công an, Văn bản một số vấn đề chính phục vụ trình Luật An ninh mạng, Hà Nội tháng 5/2018.