Nguyên nhân của vấn đề già hóa dân số

Nguyên nhân dẫn đến già hóa dân số

– Chênh lệch tỉ lệ sinh tử:

Kinh tế đang trên đà phát triển, điều kiện sống của người dẫn đã được tốt lên rất nhiều nên tuổi thọ tăng cao, tỉ lệ sinh lại giảm đi do giới trẻ ngày nay có xu hướng trì hoãn sinh con để tập trung phát triển kinh tế.

– Quan niệm của con người về sinh sản thay đổi:

Thời xa xưa ông bà chúng ta thường có xu hướng sinh đông con đông cháu, có nhà sinh tới tận chục người thậm chí hơn. Nhưng hiện nay, giới trẻ đã không còn có suy nghĩ đó nữa, muốn tập trung phát triển sự nghiệp, tận hưởng cuộc sống, có người còn không có ý định sinh con. Cho nên là việc sinh con đối với phụ nữ bây giờ chỉ là thiết yếu.

– Áp lực kinh tế xã hội:

Hiện nay, gia đình nào cũng muốn con cái mình vào môi trường học tập tốt nhất có thể, nhưng mà chi phí lại đắt đỏ nên yêu cầu đòi hỏi tài chính phải vững vàng. Do đó, nên họ chưa sẵn sàng sinh con, họ sẽ tập trung phát triển kinh tế, tích kiệm tiền đợi khi đã đủ lo và điều kiện thích hợp để sinh. Nhưng hầu như gia đình nào cũng chỉ sinh từ 1 đến 2 con.

– Nhận thức con người thay đổi:

Thời điểm hiện tại, tất cả mọi người dân rất chú trọng đến sức khỏe của mình, đặt sức khỏe lên đầu tiên. Họ sẽ tập trung vào chăm sóc sức khỏe cá nhân để kéo dài tuổi thọ của mình đầu tiên dẫn đến tuổi thọ trung bình tăng cao trong khi tỉ lệ sinh chưa đủ cân bằng. Điều này tình trạng dân số già sẽ sớm xảy ra.

– Mô hình chính sách dân số kiểm soát mức sinh:

Với chỉ tiêu theo kế hoạch hóa gia đình, mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có 1 đến 2 con nhưng chưa đưa ra được dự báo bất cập, giới hạn của nó, nhất là mục tiêu đảm bảo mức sinh thay thế và do đó không được điều chỉnh kịp thời, đúng đối tương. Bên cạnh đó, do làm tốt công tác giảm sinh nên số lượng và tỷ lệ trẻ em trong cơ cấu dân số của Việt Nam ngày càng giảm. Việc duy trì dưới ngưỡng mức sinh thay thế trong nhiều năm trước mắt sẽ tác động tích cực đến mục tiêu kiểm soát việc bùng nổ dân số, tuy nhiên hệ lụy của nó sẽ góp phần thúc đẩy già hóa dân số.

Hậu quả của già hóa dân số

– Đối với an ninh quốc phòng:

Vấn đề tham gia nghĩa vụ quân sự yêu cầu sức khỏe tốt và chiều cao tốt nên hầu hết trong quân đội sẽ là người trẻ. Với tình trạng xảy ra lão hóa dân số sẽ làm cho việc tuyển quân đi lính trở nên hao hụt, khó khăn và giảm hẳn, nếu đất nước xảy ra chiến tranh thì rất nghiêm trọng. Bên cạnh đó, nếu dân số già chiếm tỉ lệ cao thì một số quốc gia phải chấp nhận có người nước ngoài định cư để có dân số lao động. Sau đó, nhiều người tới ở và họ sẽ sinh con đẻ cái, dần dần quốc gia đó chiếm tỉ lệ người nước ngoài cao hơn người dân trong nước.

– Hậu quả về an ninh xã hội:

Già hóa dân số làm cho thời gian sống sau nghỉ hưu tăng lên, gia tăng áp lực lên hệ thống an sinh xã hội, nhất là về y tế và hệ thống trợ cấp lương hưu. Già hóa dân số tạo ra những thách thức trong phát triển kinh tế, nhất là về cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, cơ cấu nghề nghiệp sẽ thay đổi, gánh nặng kinh tế cho người lao động trẻ cũng cao hơn…; mô hình bệnh tật ở người cao tuổi thay đổi nhanh chóng, từ bệnh lây nhiễm sang bệnh không lây nhiễm với tính chất của một xã hội hiện đại; dân số già đến sớm trong khi nền kinh tế của đất nước đang trong thời kỳ thoát nghèo, người cao tuổi phải chịu nhiều gánh nặng bệnh tật, với chi phí y tế lớn và gây ra áp lực lớn đối với hệ thống y tế.

– Hậu quả về kinh tế:

Những người già thường có xu hướng tiết kiệm hơn người trẻ, mức chi tiêu cho hàng tiêu dùng ít đi. Tùy thuộc vào từng độ tuổi, một nước có dân số già sẽ thấy tình trạng lãi suất thấp và tỉ lệ lạm phát thấp. Vì người lớn tuổi tiêu dùng ít hơn nên các nước có tỉ lệ dân số già tăng cao sẽ có mức lạm phát thấp. Đồng thời việc thiếu hụt những người lao động trẻ làm cho tỉ lệ tăng trưởng kinh tế và cải tiến kỹ thuật bị giảm đi.