Tại sao nói giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt?

Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc thù của xã hội loài người và có tính chất phổ quát. thay đổi và vĩnh cửu

Hiện tượng giáo dục
Hiện tượng giáo dục

1. Hiện tượng giáo dục là gì?

– Kết quả của việc con người khám phá thế giới khách quan qua nhiều thế hệ cùng với trẻ em Con đường nhận thức trực tiếp hay qua con đường nghiên cứu khoa học là con người tích lũy một hệ thống các kinh nghiệm lịch sử xã hội. hệ thống thí nghiệm lịch Lịch sử – xã hội được lưu giữ trong một hình thức rất đặc thù, đó là văn hóa xã hội. -Hiện tượng thế hệ trước truyền kinh nghiệm lịch sử cho thế hệ sau – xã hội gọi là hiện tượng dạy học -Hiện tượng thế hệ sau tiếp thu một cách có hệ thống những kinh nghiệm lịch sử – xã hội và làm cho hệ thống các kinh nghiệm lịch sử – xã hội phong phú và đa dạng hơn gọi là biểu tượng học. Hiện tượng giáo dục là gì? Hiện tượng giáo dục là hiện tượng truyền lại từ các thế hệ trước cho thế hệ tiếp nối hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội và thế hệ tiếp theo tiếp thu nó thống các kinh nghiệm lịch sử – xã hội và làm cho nó phong phú, đa dạng hơn.

– Vì sao nói hiện tượng giáo dục là hiện tượng xã hội đặc thù của xã hội chung: Đối với hiện tượng giáo dục tồn tại và chỉ tồn tại trong xã hội loài người.

2. Hiện tượng giáo dục có tính chất chung:

Ở đâu có con người, ở đó có hiện tượng giáo dục. Hiện tượng giáo dục không chỉ ở trường, cùng gia đình nhưng ở mọi nơi, mọi lúc, mọi nơi, bất cứ nơi nào có người thì có hiện tượng giáo hóa.

3. Hiện tượng giáo dục có tính chất vĩnh cửu

Hiện tượng giáo dục luôn tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người. hiện tượng ngọn giáo Tình dục chỉ mất đi khi xã hội loài người bị hủy hoại. * Thế nào là hệ thống kinh nghiệm lịch sử xã hội? Hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội do con người khám phá thế giới được biểu hiện khách quan hiện diện trong bốn thành phần sau:

Thành phần thứ nhất của hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội là: Hệ thống kinh nghiệm kiến thức về tự nhiên, xã hội, con người và cách thức hoạt động của nó. Tri thức là những dấu hiệu (đặc điểm) cho ta biết về sự vật, hiện tượng trong thế giới thế giới khách quan và là kết quả hoạt động khám phá thế giới khách quan của con người.

– Tri thức kinh nghiệm là tri thức do con người khám phá ra thông qua tri giác trực tiếp sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh con người, trong đời sống thực Tri thức kinh nghiệm của nhân loại hiện nay được đúc kết trong tục ngữ, ca dao, văn học dân gian thay đổi.

– Tri thức khoa học là tri thức do con người khám phá ra thông qua các phương pháp nghiên cứu Được nghiên cứu khoa học và kiểm nghiệm thực tế

Thành phần thứ hai của hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội: Hệ thống kỹ năng, kỹ xảo thực hiện các phương pháp điều hành đã biết. Kỹ xảo là khả năng thuần thục một động tác nào đó, nếu tăng đến mức độ tự động hóa thì trở thành kỹ xảo. Trong quá trình khám phá thế giới khách quan, con người không chỉ biết thế giới khách quan mà còn phải biết cách nhận biết thế giới khách quan, biết vận dụng một cách khéo léo những tri thức về sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan vào đời sống hiện thực để tồn tại.

Thành phần thứ ba của hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội: Hệ thống hoạt động khám phá sáng tạo. Thông qua việc con người khám phá thế giới khách quan, con người không chỉ biết thế giới khách quan, biết vận dụng những tri thức về thế giới khách quan vào thực tiễn cuộc sống mà còn biết vận dụng một cách sáng tạo những tri thức về thế giới khách quan vào thực tiễn cuộc sống.

Thành phần thứ tư của hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội: hệ thống các quy tắc vi phạm quy định về mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới khách quan. Trong quá trình khám phá xã hội, con người biết được người với người sống yêu thương nhau, học trò phải lễ phép với thầy cô, con cái phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ, v.v. xác định mối quan hệ giữa con người với con người…

→ 4 thành phần này của hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội được lưu giữ dưới Một dạng rất đặc thù là văn hóa xã hội.

Như vậy, nói đến hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội là nói đến 4 thành tố trên, Nói đến văn hóa xã hội cũng là nói đến 4 thành phần trên

* Vì sao việc truyền thụ và tiếp thu kinh nghiệm lịch sử – xã hội một cách có hệ thống? để xã hội không những tồn tại mà còn phát triển?

Sự truyền và hấp thụ của thành phần đầu tiên giúp mọi người biết Việc truyền và hấp thụ thành phần thứ hai giúp mọi người biết cách thực hiện. Sự truyền tải và hấp thụ thành phần thứ ba giúp con người thỏa sức sáng tạo. Sự trao truyền và hấp thụ thành phần thứ tư giúp con người có thái độ đúng đắn. Biết; chuyên môn; Sáng tạo và có thái độ đúng đắn là một nhân cách. Như vậy, việc truyền đạt và tiếp thu một hệ thống kinh nghiệm lịch sử – xã hội giúp mọi người Cá nhân trở thành nhân cách và chính những nhân cách này đóng góp cho xã hội. không những tồn tại mà còn phát triển. Thực tiễn chỉ ra rằng: xã hội chỉ cần tồn tại mà không cần phát triển thì xã hội chỉ cần dựa vào trong số người. Xã hội càng đông dân thì tốc độ tuyệt chủng càng chậm và chắc chắn hơn Đến một lúc nào đó xã hội sẽ diệt vong. Công ty muốn phát triển thì công ty phải dựa vào chất lượng số lượng người, tức là trên cơ sở những người được đào tạo. Người ta đào Sáng tạo là sản phẩm của giáo dục. Vì vậy, giáo dục được xem như một chức năng của xã hội. Điều này có nghĩa là Một xã hội muốn phát triển thì nó phải thực hiện được chức năng quan trọng của mình đó là chức năng giáo dục. Vì giáo dục là một hoạt động xã hội nên giáo dục luôn chịu sự chi phối của các quy luật xã hội (chịu sự lĩnh vực của đời sống xã hội). Khi xã hội thay đổi, giáo dục cũng vậy dựa theo. Đây là lý do tại sao giáo dục luôn mang tính lịch sử và giai cấp.

4. Lịch sử giáo dục

– Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau tương ứng với một nền giáo dục khác nhau, Giáo dục một giai đoạn lịch sử khác với giáo dục một giai đoạn lịch sử khác ở đối tượng, nội dung và phương pháp. Lịch sử phát triển giáo dục toàn cầu đã chứng minh điều này. Đến nay công ty đã trải qua 5 giai đoạn các giai đoạn lịch sử khác nhau và ứng với mỗi giai đoạn lịch sử lại có một nền giáo dục khác nhau. Ứng với xã hội cộng sản nguyên thủy bằng nền giáo dục cộng sản nguyên thủy, ứng với xã hội chủ nô có giáo dục chủ nô, tương ứng với một xã hội tư bản có giáo dục tư bản chủ nghĩa và tương ứng với chủ nghĩa xã hội có nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Giáo dục giáo dục phong kiến ​​khác với giáo dục tư bản chủ nghĩa; sự hình thành tư bản khác nhau giáo dục xã hội chủ nghĩa. Các khóa đào tạo này khác nhau về mục tiêu, nội dung, phương pháp.

– Trong cùng một giai đoạn lịch sử, khi lịch sử thay đổi thì giáo dục cũng thay đổi theo Tính lịch sử của giáo dục là một quy luật quan trọng trong sự phát triển của giáo dục. Điều Điều này có nghĩa là muốn phát triển giáo dục phải căn cứ vào tính lịch sử của giáo dục. hay nói cách khác là phải căn cứ vào yêu cầu của lịch sử xã hội loài người. Nền giáo dục phát triển phải là nền giáo dục đào tạo ra những con người có trình độ khả năng đáp ứng đòi hỏi của lịch sử xã hội. Một nền giáo dục Việt Nam phát triển phát triển phải là nền giáo dục Việt Nam sản sinh ra người Việt Nam có đáp ứng yêu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

5. Tính giai cấp của giáo dục:

Trong xã hội có giai cấp, giáo dục mang tính giai cấp rõ ràng.

– Đối với mỗi tầng lớp khác nhau lại có cách giáo dục khác nhau, giáo dục giai cấp Điều này khác với giáo dục giai cấp khác về mục đích, nội dung và phương pháp. Phục vụ cho tầng lớp chủ nô có học thức; tương ứng với giai cấp phong kiến ​​có nền nền giáo dục thời phong kiến; tương ứng với giai cấp tư sản của nền giáo dục tư bản chủ nghĩa, với giai cấp vô sản có học thức xã hội chủ nghĩa. Nền giáo dục của tầng lớp này khác với hệ thống giáo dục việc giáo dục giai cấp khác ở mục đích, nội dung và phương pháp.

Thực tiễn cho thấy:

– Giai cấp nào cũng lấy nhà trường làm công cụ chuyên chính giai cấp. Nhận một ngôi nhà nhà trường với tư cách là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp. Giai cấp bóc lột được giáo dục là công cụ bảo vệ quyền chống áp bức, bóc lột của giai cấp bóc lột; giai cấp vô sản cũng vậy sử dụng nhà trường như một công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản để bảo vệ quyền lợi của giai cấp vô sản mà quyền lợi của giai cấp vô sản là quyền lợi của nhân dân lao động. Điều này được thể hiện trong quan điểm giáo dục của Đảng “Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, nhà trường là công cụ của chuyên chính vô sản”- Bất kỳ giai cấp nào cũng lấy môi trường nhà trường và môi trường giáo dục làm võ đài đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra khó khăn nhất, âm thầm nhất và quyết liệt nhất không phải là trên mặt trận quân sự mà trên mặt trận tư tưởng và văn hóa trong đó giáo dục là một trận địa. Trong cuộc đấu tranh giai cấp thắng hay thua là trên mặt trận tư tưởng và văn hóa.

– Nếu nét đặc trưng của nền giáo dục của giai cấp bóc lột là tồn tại trong nó 2 loại nhà trường, một loại nhà trường dành cho con em của giai cấp bóc lột, một loại nhà trường dành cho con em của giai cấp bị bóc lột,phương pháp đào tạo là phương pháp truyền thụ trực tiếp, cầm tay chỉ việc thì nét đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là tồn tại trong đó một loại nhà trường đó là nhà trường của toàn thể con em nhân dân lao động với mục tiêu là đào tạo con em nhân dân lao động trở thành những con người phát triển toàn diện, với nội dung giáo dục toàn diện và phương pháp đào tạo là phương pháp nhà trường.

– Nếu giai cấp bóc lột thực hiện một nền giáo dục phân biệt và bất bình đẳng thì giai cấp vô sản lại thực hiện một nền giáo dục dân chủ và bình đẳng.-Tính giai cấp của giáo dục là một tính quy luật của sự phát triển giáo dục

.-Tính giai cấp của giáo dục là một cơ sở khoa học của việc đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay. Muốn đổi mới giáo dục và đào tạo thành công chúng ta phải căn cứ vào tính giai cấp của giáo giáo dục, căn cứ vào yêu cầu đòi hỏi của Đảng về con người.

-Trong đổi mới phải căn cứ vào câu trả lời trên để xác định lại mục tiêu giáo dục và lập mục tiêu giáo dục làm cơ sở cho mọi hoạt động đổi mới giáo dục và đào tạo.

Tóm lại: Giáo dục là một phạm trù mang tính lịch sử và tính giai cấp. Tính lịch sử và tính giai cấp của giáo dục là tính quy luật của sự phát triển giáo dục, là cơ sở khoa học của đổi mới giáo dục và đào tạo.