Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta | Tư liệu – Văn kiện

Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I.Lênin được ban hành và áp dụng ở nước Nga Xôviết cách đây đã chín mươi năm. Qua mỗi bước thăng trầm của lịch sử, bản chất cách mạng và sáng tạo của nó lại một lần nữa được khẳng định.

Chúng ta đều biết, thời kỳ sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga Xôviết đã phải trải qua một chặng đường phát triển đầy mâu thuẫn và phức tạp. Tháng 2 năm 1921, V.I.Lênin đã xác định nhiệm vụ cho nước Nga Xôviết như sau: “Trong một số vấn đề kinh tế, chúng ta cần rút lui về những vị trí của chủ nghĩa tư bản nhà nước”(1). “Chủ nghĩa tư bản nhà nước” mà V.I.Lênin nói tới ở đây là chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Nếu như trong những năm đó, đôi khi V.I.Lênin có nói tới “Chủ nghĩa cộng sản”, thì điều đó chỉ có nghĩa là ông nói nó xuất hiện ở giai đoạn đầu của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, chủ nghĩa cộng sản trọn vẹn, chín muồi là sự nghiệp của một tương lai lâu dài. Chính sách kinh tế mới được xem là khâu chính của thời kỳ quá độ cũng là đối sách của V.I.Lênin do hoàn cảnh khách quan trong nước những năm 1920 – 1921 tạo ra. Vì vậy, để hiểu rõ thực chất chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, trước tiên cần phải xem xét tình trạng của nước Nga Xôviết thời kỳ sau nội chiến (1920).(1)

Như mọi người đều biết, tình trạng kinh tế của nước Nga Xôviết sau nội chiến vô cùng tồi tệ: “Hậu quả của nội chiến đạt tới mức độ khổng lồ”, tình trạng phân tán và tản mạn của những người tiểu sản xuất, sự nghèo đói, vô văn hoá và mù chữ của họ, mối liên hệ trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn bị ngừng trệ. Nội chiến những năm 1918 – 1920 làm khánh kiệt đất nước, cản trở công việc tái thiết lực lượng sản xuất vốn đã bị tàn phá nặng nề. Thêm vào đó là nạn mất mùa năm 1920, nạn dịch súc vật; vì vậy tăng thêm những vùng bị đói, việc đó lại càng cản trở việc khôi phục giao thông và công nghiệp.

Theo đà ngày càng suy thoái của tình trạng kinh tế đất nước, tình thế chính trị cũng tiếp tục trầm trọng hơn. Khá phổ biến là sự dao động về chính trị của người tiểu sản xuất. Cuộc nổi loạn ở Crônstát và cuộc khởi nghĩa của nông dân ở vùng Tambốp đã thể hiện một cách đặc trưng cho sự dao động của tầng lớp tiểu tư sản và tính tự phát của nông dân nói chung. Những sự kiện diễn ra vào mùa xuân năm 1921 chứng tỏ Đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng và những người mensêvích muốn thực hiện “chuyển giao chính quyền” cho những phần tử tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng này đã được V.I.Lênin chỉ rõ rằng, đó là do “chúng tôi đã tiến quá xa trong cuộc tấn công về mặt kinh tế… Chúng tôi chưa đủ sức để chuyển trực tiếp sang những hình thức thuần túy xã hội chủ nghĩa, sang việc phân phối thuần túy xã hội chủ nghĩa; và nếu chúng tôi lại tỏ ra không có khả năng lùi bước, để chỉ đóng khung trong những nhiệm vụ dễ hơn mà thôi, thì có lẽ chúng tôi đã bị nguy cơ diệt vong rồi” (2).

ở đây, V.I.Lênin muốn nói rằng, nếu như “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” trước đây được rất nhiều người trong Đảng hiểu như là một chính sách cần phải được tiếp tục trong chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì thực tế đã cho thấy, sau chiến tranh, không thể tiếp tục con đường đó, bởi nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân, công nhân với nông dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước.

Tháng 2 năm 1921, tại Hội nghị lần thứ XI, Đảng Cộng sản (b) Nga đã nhất trí thông qua chính sách kinh tế mới. Đảng đã quyết định áp dụng ở nước Nga Xôviết những biện pháp khẩn cấp, kiên quyết nhằm cải thiện tình cảnh của nông dân và phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn.

Qua nhiều bài viết và nói của V.I.Lênin, chúng ta thấy rõ lúc đó ông đã thay đổi quan điểm của mình về các thành phần kinh tế trong nước và sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng, về vai trò của giai cấp tư sản mới, và nhất là về vai trò của hợp tác xã và quan hệ thị trường. Cần nhấn mạnh rằng, những quan điểm đó còn tiếp tục thay đổi trong những tác phẩm cuối cùng của V.I.Lênin. Đối với ông, việc thay đổi đó là hoàn toàn tự nhiên. Ông luôn vận dụng phương pháp của phép biện chứng duy vật để giải quyết những mâu thuẫn mới nảy sinh và phát triển. Ông chỉ rõ rằng, khi tình hình đã thay đổi thì không thể áp dụng những phương pháp cũ. Rằng, chúng ta không tránh khỏi sai lầm khi vẫn duy trì tình trạng cả xã hội chỉ là một văn phòng và một nhà máy cùng lao động như nhau, hưởng cùng một mức lương. Vì vậy, sau nội chiến, ông đã kịp thời thay đổi chủ trương, chuyển từ cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới.

V.I.Lênin đã rút ra kết luận là: Trong điều kiện thực tế của nước Nga, giai cấp vô sản đã giảm nhiều sau hai cuộc chiến tranh lại vừa mới giành chính quyền về tay, họ không có kinh nghiệm quản lý và do vậy, không có khả năng khẳng định sở hữu xã hội đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội. Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành, cần phải kiên quyết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó có nghĩa là, ngoài phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa mới chỉ phôi thai và về nguyên tắc, được công nhận là có vai trò chủ đạo, cần phải cho phép tồn tại những phương thức sản xuất khác và hơn nữa cần phải phát triển ở mức độ nhất định một số thành phần kinh tế khác. Trong khi vận dụng chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin đã dùng từ “quá độ” để chỉ rõ trong nền kinh tế của nước Nga khi đó “có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”(3).

Nền kinh tế nhiều thành phần là nét đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đầu thế kỷ XX, ở nước Nga khi đó có những thành phần kinh tế sau đây:

“1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên;

2. Sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mỳ);

3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân;

4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước;

5. Chủ nghĩa xã hội”(4).

ở đây xuất hiện vấn đề là, thành phần kinh tế nào trong những thành phần kinh tế ấy có thể chấp nhận được đối với chủ nghĩa xã hội tương lai, các thành phần kinh tế tác động qua lại theo hướng nào trong mối quan hệ tương hỗ ấy?

Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin cho phép sử dụng ở từng khâu sản xuất và lưu thông những phương thức kinh tế đa dạng và đang từ từ biến đổi với quy mô lớn; có chú ý tới trình độ trang bị kỹ thuật nhằm phát huy cao độ khả năng của tất cả các thành phần kinh tế khác nhau và từng bước liên kết chúng, trong khi vẫn duy trì và phát huy vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, hướng hoạt động của nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quyết định mang ý nghĩa chiến lược này có tác dụng mở ra mọi khả năng phát triển lực lượng sản xuất và thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó chính là phương sách đúng đắn như V.I.Lênin đã chỉ ra: “Để chúng ta có thể làm tròn một cách thắng lợi nhiệm vụ của chúng ta, tức là chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”(5). Chính chủ nghĩa tư bản cũng phải bắt đầu bằng cách ấy. Nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa tư bản như là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã kiên trì giải thích rằng, nước Nga chưa đủ sức để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất sang chủ nghĩa xã hội, và trong điều kiện như vậy, chủ nghĩa tư bản ở một mức độ nhất định là không tránh khỏi, giống như sản phẩm tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi hàng hoá; nhưng nhiệm vụ trực tiếp là: “Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên”(6).

Đương nhiên, chủ nghĩa tư bản nhà nước đúng với nghĩa của nó không phải là giải pháp trực tiếp đưa nền sản xuất nông nghiệp sang nền nếp xã hội chủ nghĩa. Song, theo V.I.Lênin, ở giai đoạn phát triển này của nền kinh tế nước Nga, chủ nghĩa tư bản có thể là chủ nghĩa tư bản đặc biệt, bởi nó tồn tại và chịu sự quản lý, điều tiết của chính quyền Xôviết. Vì vậy, cho dù giữa hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội còn có sự cạnh tranh, song đó chính là động lực phát triển của lực lượng sản xuất. V.I.Lênin nhận xét rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn đóng vai trò hỗ trợ cho chủ nghĩa xã hội và chính quyền Xôviết có được lợi ích trước mắt dưới dạng phát triển lực lượng sản xuất và tăng khối lượng sản phẩm cho những nhu cầu thiết yếu trong một thời gian ngắn. Đây là lý do cắt nghĩa vì sao cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một phương tiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Để phát triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga Xôviết trong những năm 20 của thế kỷ XX, cần thiết phải sử dụng không những chủ nghĩa tư bản trong nước, mà cả ở nước ngoài nữa, khi cần phải học tập kinh nghiệm của phương Tây, và nói chung, cả kinh nghiệm của những nước phát triển. V.I.Lênin chỉ rõ: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền xô viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = tổng số = chủ nghĩa xã hội”(7). Liên quan tới vấn đề này, V.I.Lênin còn thẳng thắn phê phán những đảng viên chỉ muốn mơ ước về “sự trong sạch” của chủ nghĩa cộng sản, sính thảo ra những dự án, quy chế và quy tắc khác nhau nhưng lại không thúc đẩy được công việc thực tế tiến lên.

Như vậy, có thể nói, khi vạch ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã coi thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước là điều kiện cần thiết để chuyển sang chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông như nước Nga. Ông đã chỉ rõ vai trò đặc biệt và vị trí cần thiết của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế nước Nga: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta… Chủ nghĩa tư bản nhà nước không có gì là đáng sợ đối với Chính quyền Xôviết, vì nước Xôviết là một nước mà trong đó chính quyền của công nhân và nông dân nghèo đã được bảo đảm”(8). Không chỉ thế, ông còn nhấn mạnh rằng, “đối với thứ chủ nghĩa tư bản mà chúng ta đã cho phép tồn tại, thì cần phải để cho nó tồn tại. Nếu chủ nghĩa tư bản đó là quái đản và không tốt, thì chúng ta có thể uốn nắn nó, vì chính quyền nằm trong tay chúng ta, và chúng ta chẳng có gì mà sợ cả. Tất cả mọi người đều thừa nhận điều đó, và sẽ là lố bịch nếu lẫn lộn điều đó với việc gieo rắc tâm trạng hoang mang. Nếu chúng ta sợ thừa nhận điều đó, thì chắc chắn chúng ta sẽ tiêu vong. Nhưng chúng ta sẽ học tập điều đó, chúng ta sẽ có quyết tâm học tập điều đó; đây là điều đã được chứng minh trong ba, bốn, và năm năm nay là những năm mà chúng ta đã học tập được những điều còn phức tạp hơn trong một thời gian ngắn hơn”(9).

V.I.Lênin cho rằng, chúng ta có thể học tập chủ nghĩa tư bản nhà nước của người Đức, dốc hết sức ra bắt chước nó và không ngại dùng biện pháp độc tài để đẩy nhanh nước Nga cổ dã man bắt chước con đường phát triển của Tây Âu đó và không ngần ngại dùng những thủ đoạn dã man để đấu tranh với tình trạng dã man.

Chính sách kinh tế mới còn có ý nghĩa to lớn đối với nông thôn, nông dân. Mặc dù thực chất của vấn đề là ở sự điều chỉnh mối quan hệ trao đổi giữa thành phố (công nghiệp) và nông thôn (nông nghiệp), song đó chính là sự sống còn của nông thôn và người nông dân.(8)Không phải vô cớ mà V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trò của chính sách thuế lương thực và cơ chế thị trường. Trên thực tế, thực hiện chính sách thuế lương thực không chỉ là sự thay thế việc trưng thu lương thực thừa, mà còn có nghĩa là tự do buôn bán lúa mì thừa và các sản phẩm khác sau khi đã nộp thuế. Đây là một chính sách thông minh và hợp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, nó củng cố khối liên minh công nông với tư cách nền tảng giai cấp của chủ nghĩa xã hội tương lai; thứ hai, tạo ra sự phát triển thương mại tự do, chủ động và góp phần khôi phục toàn bộ nền kinh tế thông qua việc hồi sinh các quan hệ tư bản tư nhân. Theo V.I.Lênin, tự do thương mại chính là đòn bẩy phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp và tiểu công nghiệp, cũng như mở rộng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa quan liêu trong kinh tế. Ông viết: “Cơ sở kinh tế” của sự tiêu vong của chủ nghĩa quan liêu, của sự tiêu vong các tầng lớp trên và tầng lớp dưới, của sự tiêu vong sự bất bình đẳng…” là ở “việc trao đổi hàng hoá với nông dân”(10). Rằng, “kinh tế nông dân, với tư cách là một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được, nếu không có một sự tự do trao đổi nào đó, và không có những quan hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự do trao đổi đó”(11). Do vậy, theo ông, với nước Nga khi đó, thương nghiệp là “phương sách kiểm nghiệm” đời sống kinh tế nhà nước, là “mối ghép” duy nhất, là cái có thể liên minh đội ngũ tiên tiến của giai cấp vô sản với nông dân để từ đó, mới có thể có sự phát triển kinh tế.

Nhờ có chính sách kinh tế mới và quá trình sản xuất nên chỉ trong vòng một năm rưỡi nhân dân Liên Xô đã đạt được những kết quả rực rỡ, có ý nghĩa quyết định trong kinh tế; tình cảnh của nông dân và đa số những người tiểu sản xuất đã được cải thiện; trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ đã có sự tiến triển, không còn cảnh công nhân bất bình; trong lĩnh vực công nghiệp nặng đã bắt đầu tích luỹ được vốn cần thiết để vực nền công nghiệp nặng đi lên. Thế nhưng, không phải tất cả những người bônsêvích đều ủng hộ chính sách kinh tế mới, trong dư luận xã hội vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Vì vậy, điều quan trọng là phải hiểu đúng thực chất của chính sách kinh tế mới. Bởi lẽ, một số người cho rằng, chính sách kinh tế mới chỉ là biện pháp nhất thời; số người khác lại coi đó chỉ là thời kỳ khôi phục kinh tế đất nước sau nội chiến; số thứ ba thì nhìn nhận đó là tổn thất của cách mạng, là sự chệnh hướng sang tư bản chủ nghĩa. Chỉ có một số người hiểu đúng rằng, chính sách kinh tế mới là một trong những hình thức, phương thức hợp lý nhất để chuyển từ “chế độ cộng sản thời chiến” sang chủ nghĩa xã hội. (10)

Như vậy, ở đây là cả một quá trình, trong đó cách đặt vấn đề về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin đã có sự thay đổi. Nhưng bản thân V.I.Lênin vẫn chưa nói đến việc thay đổi căn bản quan niệm về chế độ xã hội chủ nghĩa. Công thức về “chế độ của những người xã viên văn minh” dĩ nhiên không thể bao hàm tất cả bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như công thức “Chính quyền xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”. Chúng ta không thể tán thành quan điểm cho rằng, dường như chính sách kinh tế mới là mô hình “mới” của chủ nghĩa xã hội do V.I.Lênin nghĩ ra lúc cuối đời. Chính sách kinh tế mới không phải là mô hình mới của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là hướng mới trong việc xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực kinh tế, thông qua việc lợi dụng nền kinh tế nhiều thành phần để tránh chủ nghĩa giáo điều trong việc quản lý kinh tế của nhà nước. Cơ chế kinh tế của chính sách kinh tế mới theo quan niệm của V.I.Lênin, về cơ bản, vẫn là cơ chế đặc trưng không phải cho chủ nghĩa xã hội, mà là cho thời kỳ quá độ xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.

Với V.I.Lênin, chính sách kinh tế mới là sự kết hợp nhiều hình thức sở hữu khác nhau và do vậy, trong nó có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các quan hệ sản xuất khác nhau. Đường lối phát triển này là sự củng cố từ từ nhằm tăng cường phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp và nông nghiệp để nó đủ khả năng phục hồi kinh tế đất nước và sau đó, phát triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga Xôviết. Rất tiếc rằng, mấy năm sau khi V.I.Lênin qua đời, chính sách kinh tế mới đã sớm bị dừng lại, không được tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin vào điều kiện lịch sử – cụ thể của nước ta. Từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là đặc trưng của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đưa ra chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta chỉ có một thành phần kinh tế là “thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể”, thì giờ đây, phải “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”(12).

Đây là lúc thực tiễn đặt ra cho chúng ta cần phải nhận thức đúng đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ như V.I. Lênin đã chỉ ra là có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện đó, không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ bằng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; nghĩa là khi đề ra đường lối kinh tế phải tính tới tất cả các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân, không được bỏ sót một thành phần kinh tế nào. Chỉ có như vậy, chúng ta mới khai thác được mọi tiềm năng của sản xuất, khai thác được sức mạnh của toàn dân trong tất cả các thành phần kinh tế, mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.(12).

Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng, Đại hội X của Đảng (năm 2006) đã xác định năm thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là:

1. Thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước (trước đây thường gọi là kinh tế quốc doanh) và các sở hữu khác của Nhà nước, kể cả phần vốn của Nhà nước trong các đơn vị liên doanh. Đảng ta khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”(13).

2. Thành phần kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(14).

3. Thành phần kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Mục tiêu đổi mới của chúng ta là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có kinh tế tư nhân, nhưng chúng ta không tư nhân hoá nền kinh tế. “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(15). Vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Và, để phát triển kinh tế tư nhân – thành phần kinh tế năng động nhất, chiếm số lượng doanh nghiệp và số người tham gia đông nhất, còn nhiều tiềm năng phát triển, Đảng ta xác định: “Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và nhận thông tin. Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”(16).

4. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức, quản lý, thị trường,… của nhà tư bản để phát triển sản xuất vì lợi ích của bản thân họ và của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.

5. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển.

Trong định hướng lớn về phát triển kinh tế, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức, kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(17).

Như vậy, có thể nói, quan điểm của Đảng ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước chính là sự tiếp tục cuộc cách mạng trên lĩnh vực quan hệ sản xuất trong điều kiện mới, đảm bảo thích ứng của quan hệ sản xuất với trình độ hiện có của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Tuy nhiên, kinh tế thị trường luôn có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Song, với tình hình cụ thể hiện nay của nước ta, chúng ta không có con đường nào khác là thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải chấp nhận ở mức độ nhất định những quan hệ mà chúng ta đang muốn xoá bỏ, như lao động làm thuê, người bóc lột người, bất bình đẳng, bất công, sự phân hoá giàu nghèo, nạn thất nghiệp… Song, với chúng ta, cơ chế thị trường chỉ là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất chứ không phải là mục đích cần đạt tới.

Trong hoàn cảnh đó, để đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. ở đây, sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Hiện nay, chúng ta đã có một bộ máy nhà nước đủ mạnh và một hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện để quản lý, điều khiển sự vận động và phát triển chung của xã hội. Bằng các biện pháp, nhất là các biện pháp kinh tế và hệ thống luật hiện hành, Nhà nước cần chủ động điều tiết và tạo dựng sự liên kết giữa các xu hướng khác nhau, từ đó tạo nên một động lực chung cho sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. (17)

Sau 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo đà cho đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới. Điều đó đã và đang khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trên tinh thần vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin là đúng đắn và cần thiết để đưa nền kinh tế nước ta từng bước tiến lên, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

************

(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.44. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.254.

(2) V.I.Lênin. Sđd., t.45, tr.328.

(3) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.248.

(4) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.248.

(5) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.274.

(6) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.276.

(7) V.I.Lênin. Sđd., t.36, tr.684.

(8) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.252.

(9) V.I.Lênin. Sđd., t.41, tr.141-142.

(10) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr. 462.

(11) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr. 376.

(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.41.

(13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83.

(14) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.83.

(15) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.83.

(16) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.86-87.

(17) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.73.

PGS. TS. Giảng viên cao cấp Vũ Trọng Dung

Học viện Chính trị – Hành chính Khu vực I