1. Tổ chức đánh bạc, gá bạc là gì?
– Tổ chức đánh bạc, gá bạc là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào.
– Tội tổ chức đánh bạc là tội phạm đã được quy định từ rất sớm từ Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại Điều 200, Bộ luật hình sự 1999 quy định Tội tổ chức đánh bạc tại Điều 249 và hiện nay Tội tổ chức đánh bạc được quy định tại Điều 322 Bộ luật hình sự 2015, đồng thời được sửa đổi bổ sung tại Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017.
Bạn đang xem: Luật sư bào chữa Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
2. Quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc quy định tại điều 322 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:
“1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;
d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
>> Luật sư bào chữa vụ án hình sự
Hotline: 0902.586.286
3. Các dấu hiệu của tội tố chức đánh bạc
Dấu hiệu về chủ thể của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
– Chủ thể của tội tổ chức đánh bạc không phải chủ thể đặc biệt, theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
– Ngoài ra, nếu số tiền hoặc tài sản dùng để đánh bạc có giá trị không lớn thì người có hành vi tổ chức đánh bạc phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới là chủ thể của tội phạm này.
Dấu hiệu về khách thể của tội tổ chức đánh bạc
Xem thêm : Kinh tế chính trị
– Tội tổ chức đánh bạc là tội xâm phạm đến trật tự công cộng, cụ thể là xâm phạm trực tiếp đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội.
Dấu hiệu về mặt khách quan của tội tổ chức đánh bạc
Tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Việc đánh bạc phải có từ hai người trở lên mới đánh bạc được, do đó đối với tội tổ chức đánh bạc thì người phạm tội phải tổ chức ít nhất là từ 02 người trở lên đánh bạc.
Hành vi tổ chức đánh bạc cấu thành tội tổ chức đánh bạc khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
– Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
– Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;
– Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
– Đã bị xử phạt vi phạm hành đối với tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Ngoài ra, nếu người thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc mà còn thực hiện hành vi đánh bạc, thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 322 Bộ luật hình sự, còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015.
Dấu hiệu về mặt mặt chủ quan của tội tổ chức đánh bạc
Người phạm tội tổ chức đánh bạc thực hiện hành vi của mình là do cố ý.
4. Khung hình phạt đối với tội tổ chức đánh bạc
– Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 thì người phạm tội tổ chức đánh bạc có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi khách quan, có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, không gây hậu quả thì có thể xem xét áp dụng hình phạt tiền, trường hợp nếu người phạm tội tổ chức đánh bạc với quy mô lớn, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm và có nhiều tình tiết tăng nặng theo quy định tại Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt tù đến 05 năm.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 322 Bộ luật hình sự 2015, bao gồm các trường hợp: Có tính chất chuyên nghiệp; Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên; Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội; Tái phạm nguy hiểm. Đối với các trường hợp này, người phạm tội có thể bị bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 322 Bộ luật hình sự, thu lợi bất chính chỉ thuộc trường hợp lớn và có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới 05 năm tù hoặc được chuyển sang hình phạt tiền; nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của Điều 322 Bộ luật hình sự, thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến 10 năm tù.
– Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thì chỉ áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung nếu không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính. Bên cạnh đó, việc áp dụng hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản có thể áp dụng đối với trường hợp người phạm tội thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn.
Như vậy, để có căn cứ khởi tố về tội tổ chức đánh bạc theo quy định tại Bộ luật hình sự thì sẽ xem xét dựa trên các dấu hiệu nêu trên, đối với tội tổ chức đánh bạc mặc dù hiện nay nhà làm luật không quy định về hậu quả do hành vi tổ chức đánh bạc gây ra là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt, tuy nhiên nếu hành vi tổ chức đánh bạc gây ra hậu quả khác thì người phạm tội có thể bị truy cứu về các tội khác theo quy định pháp luật hình sự.
5. Quy trình Luật sư bào chữa tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc tại Luật Minh Gia
Tại Luật Minh Gia, quy trình Luật sự tiến hành bào chữa theo yêu cầu của khách hàng được thực hiện như sau:
Bước 1: Tiếp nhận thông tin và hồ sơ vụ việc về hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc từ bị can, bị cáo, người thân, người đại diện khác của bị can, bị cáo.
Bước 2: Xác định về điều kiện, thẩm quyền giải quyết, thời gian thực hiện và phân công luật sư tham gia tố tụng.
Xem thêm : 1111 có ý nghĩa gì? Khám phá bí mật đằng sau ý nghĩa đặc biệt của con số này
Bước 3: Thu thập chứng cứ, tài liệu và các điều kiện chứng minh khác theo quy định pháp luật nhằm phục vụ công tác tham gia tố tụng bào chữa cho bị can, bị cáo của luật sư.
Bước 4: Hoàn thiện hồ sơ tham gia tố tụng gửi các cơ quan tiến hành tố tụng và triển khai nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Bước 5: Luật sư tham gia tố tụng tại cơ quan tiến hành tố tụng theo nhiệm vụ đã phân công nhằm bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự.
6. Liên hệ luật sư tham gia bào chữa về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Mọi thắc mắc về dịch vụ luật sư bào chữa tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc quý khách vui lòng liên hệ qua các phương thức sau:
Cách 1: Liên hệ Hotline yêu cầu dịch vụ: 0902.586.286
Cách 2: Gửi Email: lienhe@luatminhgia.vn
Cách 3: Đến trực tiếp địa chỉ văn phòng:
– VP Hà Nội: Số 5 Ngõ 36 Nguyễn Thị Định, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
– VP TP HCM: A11-12 Lầu 11 Block A, Tòa nhà Sky Center, số 5B Phổ Quang, Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.
7. Tình huống luật sư tư vấn về tội tổ chức đánh bạc
– Tư vấn quy định về tội tổ chức đánh bạc
Câu hỏi:
Chào luật sư Công ty Luật Minh Gia, tôi xin hỏi là: Tôi có người bạn đưa trang cá độ bóng đá cho 1 người khác chơi. Người nhận trang bóng kia lại tổ chức cho 11 người nữa chơi với khoảng 30 lần đánh trong 1 trận bóng đá. Số tiền đánh bao nhiêu thì tôi không rõ, nhưng chỉ biết là hết trận đấu người bạn của tôi được hưởng lợi là 3,9 triệu. Vì bạn tôi và các đối tượng trên đều chưa thanh toán với nhau lần nào cả nên số tiền đó là tính trên giấy tờ chứ chưa có hưởng lợi và chỉ đánh bạc trong 1 ngày.
Vậy luật sư Công ty Luật Minh Gia cho tôi hỏi là: Trong trường hợp như vậy bạn tôi bị xử theo điều luật hình sự là khoản 1 hay khoản 2 vậy? Tôi xin chân thành cám ơn Luật sư.
Mong sớm nhận được câu trả lời của công ty Luật Minh Gia.
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội tổ chức đánh bạc như sau:
“Xem trích dẫn quy định về tội tổ chức đánh bạc tại phần trên”
Do thông tin bạn cung cấp chưa đầy đủ do đó chúng tôi chưa xác định được cụ thể số tiền tham gia đánh bạc, do đó nếu số tiền 11 người tham gia cá độ bóng đá từ 5.000.000 đồng trở lên thì hành vi của người cung cấp trang cá độ đủ điều kiện cấu thành tội tổ chức đánh bạc theo khoản 1 điều 322 bộ luật hình sự về tội tổ chức đánh bạc. Với mức hình phạt là: phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm
Trên đây là nội dung tư vấn về: Tội tổ chức đánh bạc theo quy định pháp luật. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ bạn vui lòng liên hệ luật sư của chúng tôi để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp