Top 10 tôn giáo nhiều tín đồ nhất thế giới

frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen="">
Video tôn giáo có nhiều tín đồ nhất trên thế giới

Tôn giáo là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người. Xuyên suốt lịch sử thế giới, tôn giáo nắm giữ một vai trò quan trọng và phức tạp, là khởi nguồn của cả điều tốt lẫn điều xấu của con người. Tôn giáo đã là nguyên nhân của Thánh chiến thời Trung cổ, cũng như những tranh chấp tại Trung Đông hiện nay. Hãy cùng adavi xem Top 10 tôn giáo lớn nhất thế giới nhé.

1. Kitô giáo

Số lượng giáo đồ: Trên 2,4 tỷ. Quốc gia chính: Khắp thế giới, trừ một vài nơi.

Kitô giáo (thuật ngữ phiên âm) hay Cơ Đốc giáo (thuật ngữ Hán Việt) là một trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, đặt nền tảng trên giáo huấn, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Giêsu Kitô như được ký thuật trong Kinh thánh Tân Ước. Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) tin rằng Giêsu là Con của Thiên Chúa và là Đấng Messiah của người Do Thái như đã được tiên báo trong Kinh thánh Cựu Ước. Thuộc tôn giáo độc thần, hầu hết Kitô hữu tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba thân vị (tiếng Hy Lạp: hypostasis) gọi là Ba Ngôi. Kitô giáo đóng một vai trò quan trọng trong nền văn hóa và văn minh phương Tây.

Trải qua hai thiên niên kỷ, các bất đồng về thần học và giáo hội học đã hình thành các hệ phái Kitô giáo khác nhau. Bốn nhánh chính hiện nay của Kitô giáo là Công giáo Rôma, Kháng Cách (Tin Lành), Chính Thống giáo Đông phương, và Chính Thống giáo Cựu Đông phương. Công giáo Tây phương, Chính Thống giáo Đông phương và Chính thống giáo Cựu Đông phương cắt đứt hiệp thông với nhau trong cuộc Ly giáo Đông – Tây năm 1054 và cuộc Ly giáo Chalcedon khởi đầu năm 451. Kháng Cách (cũng thường gọi là Tin Lành), không phải là một hệ phái đơn nhất nhưng là thuật từ nhóm hợp, phát sinh từ cuộc Cải cách Kháng nghị thế kỷ 16. Tính chung, Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới với khoảng 2,3 tỉ tín hữu, chiếm hơn 31% dân số thế giới (năm 2015).

Từ nguyên của “Kitô” là Χριστός (Khristos) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là “Đấng được xức dầu”, dịch theo danh hiệu Messiah trong tiếng Hebrew. Trong tiếng Việt, người Công giáo dùng từ “Kitô” để gọi danh hiệu này của Giêsu, trong khi người Tin Lành thường dùng từ “Christ”. Bên cạnh từ “Kitô” phiên âm qua tiếng Bồ Đào Nha được sử dụng bởi tín hữu Công giáo, còn có từ “Cơ Đốc” xuất phát từ chữ Nho (基督) và thường được tín hữu Tin Lành sử dụng. Ngoài ra, một số người cũng dùng cách gọi Thiên Chúa giáo để chỉ Công giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung.

2. Đạo Hồi

Số lượng giáo đồ: 1,8 tỷ người. Quốc gia chính: Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á, Nam Á, Tây Phi, Đông Phi, Nam Á, Đông Nam Á, Albania, một phần lãnh thổ Nga, các tỉnh phía tây Trung Quốc

Đạo Hồi (hay còn gọi là Hồi giáo) là tôn giáo nằm trong nhóm Abraham, có xuất xứ từ Ả Rập. Trong đạo Hồi thì đạo Hồi dòng Sunni chiếm đến 70-90%. Với tổng số giáo đồ lên đến 1,5 tỉ người, đạo Hồi dòng Sunni đứng đầu trong Top 10 tôn giáo lớn nhất thế giới.Đạo Hồi được thành lập bởi nhà tiên tri Muhammad – người được những giáo đồ tin rằng đã nhận mặc khải của Allah Đấng Tối Cao – vị thần duy nhất theo đạo Hồi.

Sau cái chết của Muhammad, đạo Hồi phân chia thành 2 dòng chính là đạo Hồi dòng Sunni và Shia. Những người theo đạo Hồi dòng Sunni tin rằng 4 vị khalip đầu tiên – đệ tử tối cao của Muhammad, là người thừa kế Muhammad, Đấng Allah không có người thừa kế nào khác sau Muhammad. 4 vị khalip này sau này trở thành tên của 4 nhánh con thuộc đạo Hồi dòng Sunni: Hanafi, Hanbali, Maliki và Shafi’i.

Tổ chức nhà nước Hồi giáo tự xưng ISIS là một nhóm khủng bố thuộc đạo Hồi dòng Sunni, được thành lập ban đầu để chống lại dòng Shia tại Iraq.

3. Ấn Độ giáo

Số lượng giáo đồ: 900 triệu người. Quốc gia chính: Nam Á, Đông Nam Á, Fiji, Guyana, Mauritus.

Ấn Độ giáo hay còn gọi gọn là Ấn giáo hay Hindu giáo là tên chỉ những nhánh tôn giáo chính có tương quan với nhau và hiện còn tồn tại ở Ấn Độ. Khoảng 80% người Ấn Độ tự xem mình là người theo Ấn Độ giáo và người ta cho rằng, có khoảng 30 triệu người theo Ấn Độ giáo sống tại hải ngoại.

Ấn Độ giáo là một trong những tôn giáo cổ xưa nhất trên thế giới. Nó có nguồn gốc phức tạp, và kéo theo một chuỗi các giáo lí cũng như hệ thống thần thánh. Các nghi thức và đức tin phong phú phản ánh sự đa dạng to lớn của Ấn Độ, nơi mà có tới một tỉ tín đồ định cư ở đó. Ấn Độ giáo còn hơn cả một tôn giáo. Nó là một nền văn hóa, một thói quen sống và một bộ quy tắc ứng xử. Điều này được phản ánh trong một thuật ngữ người Ấn Độ dùng để miêu tả Ấn Độ giáo: Sanatana Dharma, có nghĩa là niềm tin vĩnh cửu hay cách mà mọi thứ tồn tại (chân lý). Từ Hinduism bắt nguồn từ một khái niệm của người Ba Tư để chỉ cư dân ở những vùng bên ngoài thung lũng Indus, nay là một dòng sông ở Pakistan. Trong những năm đầu thế kỉ 19, từ này đã đi vào tiếng Anh phổ thông để miêu tả những truyền thống tôn giáo chiếm ưu thế ở Nam Á, và ngày nay nó chỉ được dùng cho Ấn Độ giáo. Đức tin và giáo lí tu tập của đạo Hindu phổ biến rất rộng rãi, thay đổi theo thời gian, và theo cá nhân, cộng đồng hay khu vực.

4. Đạo giáo

Số lượng giáo đồ: 400 triệu người. Quốc gia chính: Trung Quốc, Singapore, Malaysia và cộng đồng người Hoa hải ngoại, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Đạo giáo (tiếng Trung: 道教) (Đạo nghĩa là con đường, đường đi, giáo là sự dạy dỗ) hay gọi là Tiên Đạo, là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, được xem là tôn giáo đặc hữu chính thống của xứ này. Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của Đạo giáo được xem nằm ở thế kỉ thứ 4 trước CN, khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Các tên gọi khác là Lão giáo, Đạo Lão, Đạo Hoàng Lão, hay Đạo gia, Tiên Giáo(道家).

Đạo giáo là một trong Tam giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại, song song với Nho giáo và Phật giáo. Ba truyền thống tư tưởng nội sinh (Nho-Lão) và ngoại nhập (Phật) này đã ảnh hưởng rất lớn đến nền tảng văn hoá dân tộc Trung Quốc. Mặc dù có rất nhiều quan điểm khác biệt nhưng cả ba giáo lý này đã hoà hợp thành một truyền thống. Ảnh hưởng Tam giáo trong lĩnh vực tôn giáo và văn hoá vượt khỏi biên giới Trung Quốc, được truyền đến các nước lân cận như Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Tại Trung Quốc, Đạo giáo đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, Triết học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y khoa, hoá học, vũ thuật và địa lý.

Vì xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác biệt và sự khó phân ranh rõ ràng với những tôn giáo khác nên người ta không nắm được số người theo Đạo giáo. Đặc biệt có nhiều người theo Đạo giáo sinh sống tại Đài Loan, nơi nhiều trường phái Đạo gia đã lánh nạn Cách mạng văn hoá tại Trung Quốc lục địa. Hiện nay, Đạo giáo có khoảng 400 triệu tín đồ tập trung tại các nước Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Đài Loan và cộng đồng người Hoa hải ngoại.

Đạo Giáo cũng nhắc tới các vị Tiên và việc thờ cúng các vị Tiên thể hiện sự kính trọng.

5. Tôn giáo dân gian Trung Quốc

Số lượng giáo đồ: 394 triệu người. Quốc gia chính: Trung Quốc, Singapore, Malaysia và cộng đồng người Hoa hải ngoại, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Tôn giáo ở Trung Quốc từ lâu đã là một cái nôi và chủ nhà của một loạt các tôn giáo lâu đời nhất – truyền thống triết học của thế giới. Nho giáo và Đạo giáo, sau đó được Phật giáo gia nhập, tạo thành “ba giáo lý” đã định hình văn hóa Trung Quốc. Không có ranh giới rõ ràng giữa các hệ thống tôn giáo đan xen này, chúng không tuyên bố là độc quyền, và các yếu tố của mỗi tôn giáo phổ biến hoặc tôn giáo dân gian. Các hoàng đế của Trung Quốc đã tuyên bố Thiên mệnh và tham gia các hoạt động tôn giáo của Trung Quốc.

Đầu thế kỷ 20, các quan chức và trí thức có đầu óc cải cách đã tấn công tất cả các tôn giáo là “mê tín”, và kể từ năm 1949, Trung Quốc đã bị Đảng Cộng sản Trung Quốc cai trị, một tổ chức vô thần cấm các đảng viên thực hành tôn giáo khi còn đương chức. Trong đỉnh điểm của một loạt các chiến dịch chống lại các tôn giáo đã được tiến hành từ cuối thế kỷ 19, Cách mạng Văn hóa chống lại các thói quen, tư tưởng, phong tục và văn hóa cũ, kéo dài từ năm 1966 đến 1967, đã phá hủy hoặc buộc chúng chuyển sang hoạt động ngầm. Chính phủ chỉ chính thức công nhận năm tôn giáo: Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Tin lành và Công giáo (mặc dù Giáo hội Công giáo Trung Quốc độc lập với Giáo hội Công giáo ở Rome). Vào đầu thế kỷ 21, ngày càng có sự công nhận chính thức của Nho giáo và tôn giáo dân gian Trung Quốc như là một phần của sự kế thừa văn hóa của Trung Quốc.

6. Đạo Phật

Số lượng giáo đồ: 365 triệu (tín đồ chính thức); 1,2-1,6 tỷ (tính cả tín đồ không chính thức). Quốc gia chính: Đông Á và Ấn Độ, một số nước Đông Nam Á.

Một tôn giáo lớn khác cũng xuất phát từ Ấn Độ và là một trong Top 10 tôn giáo lớn nhất thế giới, đó chính là đạo Phật. Đạo Phật được hình thành từ khoảng thế kỷ 6 TCN, khi Siddhartha Gautama – hoàng tử thành quốc Kapilavastu của Ấn Độ cổ đại (nay thuộc Nepal) vì nhận ra sự khổ trong cuộc sống đã lên đường tìm cách diệt khổ. Siddhartha hành khất khắp nơi và cuối cùng đã giác ngộ, được tôn xưng là Shakyamuni (Thích-Ca-Mâu-Ni), nghĩa là “Bậc thức giả vĩ đại” hoặc cũng gọi là Buddha (Phật), nghĩa là “Người giác ngộ”. Ngài được coi như là vị Phật đầu tiên đã thoát khỏi luân hồi để nhập diệt vào cõi Niết-Bàn.

Nguyên tắc chính của đạo Phật là hướng con người đến cái thiện, tránh làm điều ác, chăm chỉ tu luyện để diệt khổ, diệt ngã, thoát khỏi luân hồi, để đến với Niết-Bàn (theo Phật Thích-Ca) hoặc Tây Phương cực lạc (theo Phật A-di-đà). Sau khi đạo Phật được Phật Thích-Ca lập ra, đã nhanh chóng phát triển toàn cõi Ấn Độ và lan sang cả các nước Tây Á, từ Tây Á lan truyền sang phía Đông thông qua con đường tơ lụa. Với sự phân nhánh theo Tiểu thừa và Đại thừa, khi Tiểu thừa chủ trương giữ cái căn bản, nguyên gốc còn Đại thừa chủ trương mở rộng, phát triển, đạo Phật Đại thừa đã giao thoa với tín ngưỡng các nước khác để tạo sức ảnh hưởng. Đạo Phật phát triển rộng rãi ở Trung Hoa vào thời nhà Đường, với sự tích Đường Tăng Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh và rồi từ đó trở đi, đạo Phật phát triển rộng khắp Trung Hoa, với ngôi chùa nổi tiếng Thiếu Lâm Tự.

Từ Trung Hoa, đạo Phật ảnh hưởng rộng rãi tới các quốc gia khác như Nhật Bản, Triều Tiên…Trong khi đạo Phật Đại thừa ảnh hưởng khắp Trung Hoa và Đông Á thì đạo Phật Tiểu thừa cũng theo người Ấn Độ sang khu vực Đông Nam Á – vốn được xem như là Ấn Độ thu nhỏ với các nền văn minh Khmer, Java… Tại Việt Nam – một quốc gia có đông đảo dân chúng theo và ủng hộ đạo Phật, cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa đều du nhập vào từ rất sớm và trải qua quá trình phát triển, hòa trộn vào tín ngưỡng bản địa, đã là tôn giáo chính ở Việt Nam.

7. Tôn giáo của các bộ tộc

Số lượng giáo đồ: 300 triệu người. Quốc gia chính: Khắp thế giới trừ Châu Âu.

Bộ tộc (tiếng Anh: Kinship) hay còn gọi là dòng tộc hay thân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định và thường có quan hệ máu mủ nhất định (huyết tộc). Đứng đầu một bộ tộc thường là một tộc trưởng hay tộc chủ.

Về số lượng, bộ tộc đông đảo hơn bộ lạc vì bộ tộc chính là tổ chức từ sự liên kết của các bộ lạc. Mỗi bộ tộc có tên gọi và có những đặc điểm về kinh tế, văn hóa riêng. Khác với bộ lạc và thị tộc, bộ tộc có vùng lãnh thổ tương đối ổn định, dân cư đa dạng và đan xen, đa ngôn ngữ và văn hóa, trong đó ngôn ngữ của bộ lạc nào chiếm vị trí trung tâm của sự giao lưu và phát triển kinh tế sẽ trở thành ngôn ngữ chung của cả bộ tộc.

Thời kỳ hình thành bộ tộc là thời kỳ đánh dấu sự tan rã hoàn toàn của xã hội công xã nguyên thuỷ, sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu ra đời thay thế sở hữu tập thể của thị tộc, bộ lạc. Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội có giai cấp đầu tiên được hình thành.

Phạm vi thống trị của nhà nước có thể không trùng với bộ tộc. Có nhà nước một bộ tộc, cũng có nhà nước nhiều bộ tộc, sắc tộc. Sự xuất hiện nhà nước đã góp phần rất quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy sự thống nhất về kinh tế và văn hóa, mở rộng giao lưu giữa các bộ tộc…

8. Nho giáo

Số lượng giáo đồ: 150 triệu người. Quốc gia chính: Đông Á và cộng đồng người Hoa ở hải ngoại

Nho giáo (儒教), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hòa, thái bình, thịnh vượng.

Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.

Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ “Nho” gồm từ “Nhân” (người) đứng gần chữ “Nhu”. Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý,…Nhìn chung “Nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.

Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.

9. Tôn giáo truyền thống Châu Phi

Số lượng giáo đồ: 100 triệu người. Quốc gia chính: Châu Phi.

Người Phi châu theo nhiều loại tôn giáo, với Kitô giáo và Hồi giáo là phổ biến nhất. Khoảng 40% dân số châu Phi là người theo Kitô giáo và 40% theo Hồi giáo. Khoảng 20% còn lại chủ yếu theo các tôn giáo châu Phi bản địa. Một lượng nhỏ người Phi cũng theo các tín ngưỡng của Do Thái giáo, chẳng hạn như các bộ lạc Beta Israel và Lemba.

Các tôn giáo châu Phi bản địa có xu hướng tiến hóa quanh thuyết vật linh và tục thờ cúng tổ tiên. Tư tưởng chung của các hệ thống tín ngưỡng truyền thống là sự phân chia thế giới tâm linh thành “có ích” và “có hại”. Thế giới tâm linh có ích thông thường được cho là bao gồm linh hồn tổ tiên giúp đỡ cho con cháu của họ hay các thần linh có sức mạnh để bảo vệ toàn bộ cộng đồng tránh khỏi các thảm họa tự nhiên hoặc sự tấn công của kẻ thù; trong khi đó thế giới tâm linh có hại bao gồm linh hồn của các nạn nhân bị sát hại – là những người được chôn cất mà không có các nghi thức mai táng đúng cách và các loại ma quỷ mà các ông đồng, bà cốt sử dụng để tạo ra bệnh tật cho kẻ thù của họ. Trong khi tác động của các dạng nghi lễ thờ cúng nguyên thủy này vẫn còn tiếp diễn và có ảnh hưởng sâu sắc thì các hệ thống tín ngưỡng đó cũng tiến hóa nhờ sự tiếp xúc với các loại tôn giáo khác.

Sự hình thành của vương quốc cổ đại ở Ai Cập trong thiên niên kỷ 3 TCN đã đánh dấu tổ hợp tín ngưỡng tôn giáo đầu tiên được biết trên châu lục này. Vào khoảng thế kỷ IX TCN, Carthage (ngày nay là Tunisia) đã được người Phoenicia thành lập, và trở thành trung tâm vũ trụ lớn của thế giới cổ đại, trong đó các thần thánh từ Ai Cập, La Mã cổ đại và nhà nước-thành phố Etruscan đã được thờ cúng.

Nhà thờ của Chính thống giáo Ethiopia có niên biểu chính thức từ thế kỷ IV, và vì thế là một trong các nhà thờ đầu tiên của Kitô giáo đã được xây dựng ở một nơi nào đó. Ở giai đoạn đầu thì tính chất chính thống của Kitô giáo đã có ảnh hưởng tới các vùng là Sudan ngày nay và các khu vực lân cận khác; tuy nhiên sau sự phổ biến của Hồi giáo thì sự phát triển của Kitô giáo đã bị chậm lại và bị hạn chế chỉ ở những vùng cao nguyên.

10. Thần đạo

Số lượng giáo đồ: 30 triệu. Quốc gia chính: Nhật Bản

Thần đạo có rất nhiều các Thần Thánh, có đến 8 triệu thần (神 kami). Tuy một số các vị thần này được nhân cách hóa, đa phần các thần liên quan đến thiên nhiên như linh hồn của đất, trời, Mặt Trăng, cây cỏ, hoa lá. Ngay cả đá, núi, hay động vật như cáo, gấu và người quá cố đã trở thành linh hồn cũng được xem là thần. Những thần trú ngụ ở tầng cao nhất trên thiên đàng gọi là “cao thiên nguyên” (高天原 takama-ga-hara), và chỉ rời khỏi đó khi được mời xuống các đền thờ trong các nghi lễ.

Nghi lễ trong Thần đạo để cầu nguyện hay cảm tạ các thần thường được tổ chức tại các thần xã (神社) hoặc những nơi linh thiêng đặc biệt. Những linh vật thường được dâng lên thần linh là vải, gương hay kiếm. Nghi lễ tẩy trần rất quan trọng, người làm lễ phải giữ cho mình được trong sáng để được tĩnh tâm và có được may mắn. Ngày nay, các hoạt động nghi lễ Thần đạo thường được gắn với lễ hội, lễ cưới truyền thống hay năm mới. Tuy nhiên người ta cũng thường hay đến đền để cầu nguyện và dâng lễ (thường là chỉ bỏ vài yen vào thùng rồi cầu xin thần), hay mua bùa may mắn. Và ở nhà cũng thường có thần bằng (神棚 kamidana) để thờ các linh hồn.

Tư tưởng của Thần đạo khác với những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay buộc con người làm gì, mà chỉ khuyên nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác. Giết chóc đối với Thần đạo là điều ác và không nên giết sinh vật trừ khi vì sự sống còn của bạn, nên trước khi ăn thường phải nói câu Itadakimasu! (戴きます) để cảm ơn những sinh linh đã chết để trở thành thức ăn, ngày nay điều này đã trở thành một phong tục. Những người hay sinh vật bị giết một cách dã man, và không được thờ cúng sẽ trở thành hoang thần dạng (荒神様 aragami). Ngoài ra, còn có rất nhiều loại ma quỷ như quỷ (鬼 oni), yêu quái (妖怪 youkai), hà đồng (河童 kappa), …

Nguồn sưu tầm, cập nhật 5/2023