Phát biểu tại Hội nghị toàn quán triệt và triển khai Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi mở, nhấn mạnh, khái quát, làm rõ thêm một số vấn đề, đồng thời tập trung trả lời 3 câu hỏi:
Bạn đang xem: Tổng Bí thư: Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là 'mặt tiền' quốc gia, 'khúc ruột' của Tổ quốc, 'cửa ngõ' ra biển cả
Một là, vì sao vào lúc này Bộ Chính trị lại phải bàn và ra Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045?
Hai là, những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết lần này là gì?
Ba là, chúng ta cần làm gì và làm như thế nào để thực hiện có kết quả tốt nhất Nghị quyết của Bộ Chính trị, biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động?
Vậy vì sao lúc này Bộ Chính trị lại phải bàn và ra Nghị quyết mới về Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, ngoài những lý do khách quan, chủ yếu là để quán triệt đầy đủ, sâu sắc và triển khai thực hiện thật tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển Vùng, đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng và cả nước trong giai đoạn phát triển mới, thì việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ còn có những lý do xuất phát từ đặc thù riêng có của Vùng và thực tế 18 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 25-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung bao gồm 14 tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Trong đó có 3 tiểu vùng là: Bắc Trung Bộ (gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị); vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (gồm: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) và vùng Nam Trung Bộ (gồm: Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận).
Diện tích tự nhiên toàn Vùng chiếm 28,9% diện tích của cả nước, với bờ biển dài gần 1.800 km, chiếm hơn 55% bờ biển cả nước (3.260 km), và nhiều cảng nước sâu, các đảo, cụm đảo và quần đảo quan trọng như Hoàng Sa, Trường Sa, Lý Sơn, Cù Lao Chàm…
Dân số của Vùng năm 2020 khoảng 20,343 triệu người (chiếm 20,8% dân số cả nước) với hơn 50 dân tộc anh em cùng chung sống.
Trong Vùng có nhiều tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú: chiếm 100% trữ lượng Cromit, 60% trữ lượng thiếc, 20% trữ lượng sắt, 44% trữ lượng đá vôi xi măng của cả nước, được phân bố khá tập trung tại một số địa phương, tạo thuận lợi cho việc khai thác, chế biến.
Ngoài ra, còn có titan ở Phú Bài (Thừa Thiên Huế), măng gan, than ở Khe Bố (Nghệ An), đá quý ở Quỳ Hợp, Quế Phong (Nghệ An); đất sét trắng (Quảng Bình), cát thuỷ tinh ở ven biển; dầu khí ở ngoài khơi và nhiều tiềm năng để phát triển thuỷ, hải sản, năng lượng gió, năng lượng mặt trời,…
Vùng hiện có 9 sân bay, trong đó có 3 sân bay quốc tế; nhiều cảng biển lớn như: Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây, Tiên Sa, Dung Quất, Quy Nhơn, Vũng Rô, Nha Trang, Cam Ranh,…
Đó là những điều kiện thuận lợi để Vùng phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững, nhất là kinh tế biển và phát triển đồng bộ cả 3 lĩnh vực: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền, biển đảo của Tổ quốc…
Đặc biệt, đây là vùng đất có truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường, rất anh hùng, vẻ vang, nơi sản sinh ra biết bao các anh hùng, hào kiệt, đã làm rạng danh lịch sử nước nhà; và đây cũng là vùng đất có nền văn hoá lâu đời, nơi kết tinh nhiều giá trị tinh hoa, đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều danh lam, thắng cảnh, di sản văn hoá, di tích lịch sử nổi tiếng.
Xem thêm : BÁNH KEM BAO NHIÊU CALO? CÁCH ĂN BÁNH KEM KHÔNG BÉO
Vùng có hàng trăm di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng, 5/8 di sản vật thể, 4/12 di sản văn hoá phi vật thể, và 2/9 khu dự trữ sinh quyển quốc gia, nhiều bãi biển đẹp và một số hệ sinh thái điển hình như đầm, phá, vùng cát, san hô…
Người dân nơi đây có nhiều đức tính quý báu: Cần cù, chịu thương, chịu khó; tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, kiên cường, bất khuất vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, bất trắc trong cuộc sống do thiên tai, địch hoạ gây ra, đúng như Nhà thơ nổi tiếng Tố Hữu đã khắc hoạ trong bài thơ “Nước non ngàn dặm”:
“Con người như dãy Trường Sơn
Vững chân bám trụ, chẳng sờn gian lao.
Sống hiên ngang, sống thanh cao
Quê hương, biết mấy tự hào lòng ta!”
Hay như Nhà thơ Hoàng My Na đã viết trong bài thơ “Mời Anh về miền Trung”:
“Miền Trung yêu dấu ta ơi
Từ trong gian khó càng ngời sáng hơn…
Nắng mưa dẫu có thất thường
Nâng niu đòn gánh tình thương hai đầu!”
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng
Với những đặc điểm nêu trên, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; là “mặt tiền” của quốc gia, “khúc ruột” của Tổ quốc là “cửa ngõ” ra biển cả, “bệ đỡ” cho các tỉnh Tây Nguyên, kết nối hành lang kinh tế Đông – Tây với đường hàng hải, hàng không quốc tế, nhiều cảng biển và cảng hàng không lớn; có vị trí địa lý chiến lược về giao lưu kinh tế Bắc – Nam và Đông – Tây; có quan hệ chặt chẽ với Tây Nguyên, với các nước bạn Lào, Đông Bắc Campuchia, Đông Bắc Thái Lan và Mianmar, nên có ý nghĩa quan trọng cho phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Tổng Bí thư nêu rõ, nghị quyết của Bộ Chính trị và Báo cáo của đồng chí Trần Tuấn Anh, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đã trình bày rất đầy đủ, cụ thể những kết quả, thành tựu đã đạt được; những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân.
Xem thêm : Gạo đen Phúc Thọ là gì?
Tổng Bí thư bổ sung và nhấn mạnh thêm: Sau gần 18 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX; Kết luận số 25-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI, toàn Vùng đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, cả về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cũng như bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhiều điểm nghẽn đối với phát triển đã được khơi thông; tiềm năng, lợi thế của Vùng và từng địa phương trong Vùng, nhất là về kinh tế biển, từng bước được phát huy.
Diện mạo toàn Vùng đã có nhiều thay đổi tích cực, và Vùng đang dần trở thành một khu vực phát triển khá năng động, một đầu cầu quan trọng của cả nước trong hợp tác và hội nhập quốc tế; một số địa phương trong Vùng đã vươn lên mạnh mẽ, từng bước trở thành các cực tăng trưởng, hướng tới là trung tâm của Vùng và các tiểu vùng.
Khoảng cách phát triển của Vùng so với mức trung bình của cả nước đang dần dần được thu hẹp. Văn hóa, xã hội có bước phát triển; nhiều giá trị di sản văn hoá được bảo tồn và phát huy.
Khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo được quan tâm phát triển với một số ứng dụng trong thực tế. Chất lượng khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo từng bước được nâng cao.
Trình độ, chất lượng dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân từng bước được cải thiện. Công tác dân tộc, tôn giáo đạt nhiều kết quả.
An sinh xã hội được bảo đảm, tỉ lệ hộ nghèo giảm khá nhanh. Đời sống vật chất và tinh thần, thu nhập và mức sống của nhân dân, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được nâng lên rõ rệt.
Công tác xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc biên giới, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh có những chuyển biến tích cực; sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố vững chắc.
Tạo ra bước chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn nữa, có tính đột phá trong phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ
Tuy nhiên, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ hiện vẫn là vùng có nhiều chỉ số phát triển thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Tiềm năng, lợi thế của Vùng, nhất là lợi thế về kinh tế biển, chưa được khai thác hợp lý, phát huy có hiệu quả để trở thành nguồn nội lực quan trọng cho phát triển. Kinh tế – xã hội Vùng mới chỉ là phép cộng cơ học của các địa phương, chưa mang tính tổng thể dấu ấn của toàn vùng.
Các cực tăng trưởng, trung tâm phát triển và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chưa thể hiện rõ vai trò là động lực tăng trưởng, đầu tầu dẫn dắt kinh tế vùng. Vùng miền núi phía Tây vẫn là khu vực khó khăn. Phát triển văn hóa, xã hội chưa đáp ứng kịp yêu cầu trong tình hình mới…
“Chính vì vậy mà lần này Bộ Chính trị đã thống nhất cao, cho rằng cần phải ban hành Nghị quyết mới để tạo ra bước chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn nữa, có tính đột phá trong việc phát huy vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt và khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng, lợi thế phát triển to lớn của Vùng; đồng thời tiếp tục phát huy những kết quả, thành tựu to lớn đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, vượt qua những khó khăn, thách thức mới đang đặt ra trong phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Tổng Bí thư nhấn mạnh./.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp