Hiến chương tự do năm 1100
Bạn đang xem: Lịch sử tư tưởng lập hiến ở Anh
Vương quốc Anh được hình thành từ giữa thế kỷ X, vào năm 927 khi bảy vùng đất nước Anh đều thuần phục sự cai trị của vua Anh. Tuy nhiên, đến ngày 14.10.1066, Vua Harold II của Anh bị bại trận và bị giết trong trận chiến Hastings với Công tước William của vùng Normandy nước Pháp. Sau khi người Norman xâm chiếm nước Anh, Vua Henry I lên ngôi và trị vì từ năm 1100 đến 1135. Khi mới lên ngôi, Vua Henry I đã ban hành Bản hiến chương tự do năm 1100. Bản Hiến chương tuyên bố: “Nhờ ơn Thượng đế và Hội đồng quý tộc của toàn thể Vương quốc Anh mà ta được trao vương miện Hoàng đế”. Với Hiến chương về tự do, nhà vua thừa nhận quyền cai trị đất nước của Vua không những xuất phát từ ý chí Thượng đế mà còn từ ý chí của Hội đồng quý tộc. Có thể nói, đây là bước đầu chuyển từ tư tưởng quân chủ chuyên chế sang tư tưởng quân chủ lập hiến.
Hiến chương Magna Carta 1215
Vua John trị vì nước Anh từ năm 1199 đến 1216. Năm 1215, các nhà quý tộc Anh buộc Vua John ký Hiến chương Magna Carta, còn gọi là Hiến chương vĩ đại. Hiến chương Magna Carta thừa nhận các quyền chính trị và dân sự của cá nhân như quyền của các thương nhân có thể ra, vào, ở lại hoặc di chuyển trong lãnh thổ nước Anh để buôn bán. Hiến chương cũng đảm bảo cho các cá nhân trung thành với vua có quyền nhập cảnh, xuất cảnh và tái nhập cảnh vào Vương quốc Anh.
Nghị viện đầu tiên của Liên hiệp Anh và Scotland năm 1707
Sự thành lập Nghị viện Anh năm 1265
Vua Henry III (1207-1272) thừa kế ngai vàng của Vua John khi mới lên 9 tuổi. Vì vậy, triều đình Anh quốc phải thiết lập chế độ nhiếp chính cho đến khi Vua Henry đủ 20 tuổi. Dưới áp lực của các nhà quý tộc, Vua Henry phải chấp nhận sự ra đời và tồn tại của Nghị viện đầu tiên của nước Anh năm 1265.
Đạo luật về quyền lực tối cao năm 1534
Dưới triều Vua Henry VIII, một đạo luật về quyền lực tối cao được ban hành năm 1534 quy định Vua là người đứng đầu tối cao của nhà thờ Anh; còn Luật về quyền lực tối cao năm 1559 quy định Nữ hoàng Elizabeth I là thống đốc tối cao của nhà thờ Anh. Tuy nhiên, Nữ hoàng phải được sự đồng ý của Nghị viện khi ban hành bất cứ chính sách nào. Nghị viện ngay từ thời kỳ Nữ hoàng Elizabeth trị vì đã có hai viện. Thượng viện đại diện cho tầng lớp quý tộc nên được gọi là House of Lords (Viện quý tộc), còn Hạ viện đại diện cho tầng lớp trung lưu trong xã hội nên được gọi là House of Common (Viện bình dân). Hạ viện nhanh chóng phát triển do sự phát triển đột biến của tầng lớp trung lưu trong xã hội. Đặc biệt, trong Hạ viện xuất hiện khối Nghị sĩ đại diện cho những người theo đạo Tin lành luôn đòi hỏi mở rộng các quyền cho những người theo đạo này.
Bản Hiến pháp Tudors
Xem thêm : Xây dựng quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng, cụ thể hóa Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị
Trong thời kỳ dòng họ Tudors trị vì nước Anh (1485 -1603)3, học giả Geoffrey Elton đã xây dựng bản Hiến pháp Tudors theo trường phái nhà nước Hy Lạp cổ đại, với mô hình của Cộng hòa Sparte. Học giả khá nổi tiếng cùng thời là John Aylmer đã cổ vũ cho tư tưởng lập hiến của bản hiến pháp này và cho rằng Hiến pháp Tudors là anh em, họ hàng với nền cộng hòa cổ điển Sparte. Mặc dù Hiến pháp Tudors không được Nghị viện và Vua chấp nhận nhưng các học giả này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng lập hiến ở Anh thời kỳ này, đó là kết hợp những tư tưởng dân chủ Hy Lạp thời kỳ cổ đại với chế độ quân chủ mới ở Anh để xây dựng chế độ cộng hòa Nghị viện.
Vua James I (1603-1625)
Khi Nữ hoàng Elizabeth I từ trần năm 1603, ngai vàng của Nữ hoàng được chuyển giao cho cháu là James VI, con trai của Nữ hoàng Scotland. James VI của Scotland trở thành Vua James I của Vương quốc Anh. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thiết lập liên hiệp Anh. Vua James I của Anh là người sùng bái học thuyết quyền lực của Vua xuất phát từ ý chí Thượng đế. Quan điểm này của James I được củng cố thêm bởi niềm tin tôn giáo vì James là người theo đạo Tin lành, người luôn tin rằng số phận con người do Chúa định đoạt. James I vì thế đã chống lại tư tưởng bầu cử, đặc biệt là quan điểm phổ biến lúc bấy giờ ở Anh là giáo đoàn bầu ra các mục sư của họ.
Vua Charles I và các cuộc chiến tranh
Vua Charles I thừa kế ngai vàng của Vua James năm 1625. Cũng như cha đẻ của mình, Vua Charles I tin vào quyền của Thượng đế và tiếp tục tranh đấu với Nghị viện để bảo vệ các quyền của mình. Nghị viện trong thời kỳ này nắm quyền kiểm soát thuế và đang đấu tranh để được quyền quyết định nhiều hơn nữa trong lĩnh vực thuế. Sau nhiều lần triệu tập Nghị viện để yêu cầu thu thuế rồi lại giải tán sau khi nhận được thuế, cuối cùng, Charles I lại triệu tập Nghị viện một lần nữa. Và lần này Nghị viện đặt ra những điều kiện ngặt nghèo buộc Charles phải tuân theo như một ông vua của chế độ quân chủ lập hiến như: thực hiện Luật ba năm năm 1641, cho phép Nghị viện họp 3 năm một lần dù có sự đồng ý của Vua hay không; xóa bỏ thiết chế tòa án gọi là Tòa Sao khét tiếng là tòa án bất công và tàn bạo; xóa bỏ Tòa án cấp cao (Tòa án này cũng như Tòa Sao đã xét xử một cách bất công, không còn là toà án của pháp luật); tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo và cho phép lưu hành bản sao các tài liệu cáo trạng của Charles I từ khi lên ngôi vua; chấp nhận không bao giờ giải tán Nghị viện nếu không được sự đồng ý của Nghị viện.
Với những điều kiện được Vua Charles chấp nhận trên đây, phần lớn người Anh nghĩ rằng Nghị viện đã kiềm chế được quyền lực của Vua. Tuy nhiên, Charles I đã đưa 500 lính đột nhập vào Hạ viện để bắt 5 người cầm đầu trong phái cấp tiến. Nghị viện phản ứng mạnh mẽ trước sự kiện này và xung đột giữa Vua và Nghị viện càng trở nên gay gắt hơn. Trước tình hình đó, Vua Charles rời bỏ London để đến Oxford và cuộc nội chiến bắt đầu từ năm 1642.
Nghị viện đã cầu viện quân đội Scotland trợ giúp với hứa hẹn khi giành chiến thắng sẽ thiết lập giáo phái Tin lành trưởng lão trên đất Anh. Họ đặt tên cho đội quân của mình là Quân đội kiểu mới và phong Oliver Cromwell, một thành viên của Nghị viện làm chỉ huy. Phần lớn các thành viên của đội quân Cromwell là người theo giáo phái trưởng lão của đạo Tin lành.
Oliver Cromwell và khối thịnh vượng chung
Với trận chiến ở Breston 1648, Cromwell đã đánh bại Vua Charles I. Sau chiến thắng, Nghị viện đã loại bớt 143 trong số 203 Nghị sĩ theo giáo phái trưởng lão của đạo Tin lành làm cho giáo phái này chỉ còn thiểu số trong nghị viện. Nghị viện mới ra hai nghị quyết quan trọng: xóa bỏ chế độ quân chủ, xóa bỏ Viện quý tộc trong Nghị viện, đàn hạch vua Charles I; thiết lập nền cộng hòa gọi là “Khối thịnh vượng chung” nhưng thực chất là nền chuyên chính của Cromwell.
Scotland chống lại nền cộng hòa Cromwell và tuyên bố con trai của Charles I ở Edinbourgh là Vua Charles II. Tuy nhiên, Charles II bị quân đội của Cromwell đánh bại vào năm 1650. Cromwell tiến về Ireland, do xung đột với đạo Cơ đốc nên trong các trận đánh với quân Ireland ông cho quân đội tàn sát không thương tiếc. Điều này làm cho người Ireland căm phẫn và nổi loạn chống lại ông. Cromwell đã giải tán Nghị viện và tự tuyên bố mình là người bảo hộ của nước Anh.
Richard Cromwell và Charles II
Xem thêm : 15+ cách kiềm chế cảm xúc nóng giận để đảm bảo sức khỏe bản thân
Cromwell mất năm 1658 và ngai vàng được truyền lại cho con trai là Richard Cromwell. Thực hiện chế độ chuyên chế quân sự nhưng Richard không thể thống nhất được các nhóm tôn giáo và sớm bị lật đổ. Sau khi nắm được chính quyền, năm 1660, George Monk triệu tập những người còn lại của Nghị viện nhóm họp. Nghị viện biểu quyết giải tán Nghị viện để thành lập Nghị viện mới. Nghị viện mới được thành lập đã quyết định tái lập chế độ quân chủ và đưa Charles II (lúc này đang còn cư trú ở Pháp) về làm Vua của Anh.
Việc thành lập Liên hiệp Anh năm 1707
Ngày 22.6.1706, Hiệp ước Liên hiệp giữa Anh và Scotland được ký kết. Hiệp ước này nhanh chóng được Nghị viện của Anh và Scotland phê chuẩn. Nghị viện của Anh và Scotland cũng thông qua Luật liên hiệp vào năm1707.
Gần một thế kỷ sau đó, Vương quốc Ireland, đất nước được đặt dưới sự kiểm soát của Anh từ năm 1541 đến 1691 đã thông qua Luật liên hiệp để gia nhập Liên hiệp Vương quốc Anh vào năm 1800.
Trong thế kỷ XIX, Nghị viện Anh ban hành rất nhiều văn bản luật liên quan đến việc mở rộng quyền bầu cử cho công dân. Thời kỳ đầu chỉ có khoảng 5% dân số có quyền bầu cử; đến nay, quyền bầu cử phổ thông đầu phiếu đã được xác lập.
Cải cách tòa án nửa cuối thế kỷ XIX
Trước năm 1875, ở Anh tồn tại hai hệ thống tòa án cạnh tranh với nhau. Tòa án thông luật là hệ thống các tòa án hoàng gia xét xử theo nguyên tắc áp dụng án lệ. Do thủ tục tố tụng của hệ thống tòa án này phức tạp nên không phải ai cũng có thể bảo vệ được công lý. Đây chính là lý do mà Tòa đại pháp quan ra đời. Tòa án này xét xử trên cơ sở luật công bình, là tổng thể các quy phạm pháp luật do Tòa đại pháp quan tạo ra để bổ sung, bù đắp những lỗ hổng của hệ thống thông luật thời đó.
Luật Tòa án tối cao năm 1873 đã thành lập Tòa án tối cao bao gồm hai bộ phận là Tòa án cấp cao và Tòa phúc thẩm. Tòa án cấp cao bao gồm ba phân tòa là Tòa Đại pháp quan; Tòa gia đình; Tòa nữ hoàng. Với cải cách này, hai hệ thống tòa án thông luật và luật công bình đã hòa nhập vào một và trở thành các tòa chuyên trách của Tòa án cấp cao.
Một đạo luật quan trọng khác được ban hành trong thời gian này là Luật về thẩm quyền xét xử phúc thẩm 1876. Đạo luật thành lập ủy ban tư pháp của Thượng viện là cơ quan xét xử phúc thẩm cuối cùng ở Anh. Như vậy, Thượng viện Anh vừa là một trong hai viện của cơ quan lập pháp đồng thời là cơ quan nắm quyền tư pháp tối cao.
Tách quyền tư pháp khỏi Nghị viện
Từ năm 1997 đến năm 2001, Công đảng cầm quyền đã tiến hành các cuộc cải cách đáng lưu ý trong đó có việc thành lập Tòa án tối cao ngày 1.10.2009. Tòa án Tối cao là tòa phúc thẩm cuối cùng và cao nhất đối với tất cả các vụ án trên tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự của Anh, xứ Wales và Bắc Ireland và lĩnh vực dân sự của Scotland. Việc thành lập Tòa án tối cao Liên hiệp vương quốc Anh đã tách quyền tư pháp ra khỏi Thượng viện, một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nguồn: https://luatduonggia.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp