Sự ra đời, phát triển và đặc điểm nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

1. Sự giải thể của công xã thị tộc và sự ra đời của công xã nông thôn:

Khoảng thế kỷ VIII – VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn của Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, dần dần hình thành các bộ lạc lớn, gần nhau về tiếng nói và hoạt động kinh tế, phát triển sản xuất.

Trong các chiềng chạ, một số người mới được bầu làm trưởng bản để lo liệu mọi việc; một số ít nghèo, phải làm nô lệ. Mâu thuẫn giữa thanh niên và người nghèo đã nảy sinh và ngày càng gia tăng.

Các ấp đó dựa trên cơ sở công nông. Một xã bao gồm nhiều gia đình cùng chung sống trên một địa bàn, trong đó quan hệ huyết thống vẫn được đảm bảo tồn tại trong xã bên cạnh quan hệ vùng miền (xử làng).

Sự ra đời của những người lao động ở nông thôn là một trong những điều kiện tiên quyết để hình thành quốc gia và nhà nước.

Bên cạnh đó, yếu tố thủy lợi và tự vệ cũng đóng vai trò hết sức quan trọng dẫn đến sự hình thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên ở thời Đông Sơn. Vì cuộc đấu tranh giải quyết những trở ngại của thiên nhiên (mưa nguồn, nước lũ, bão, lốc, hạn hán) đòi hỏi tất cả các thành viên không chỉ ở từng xã mà nhiều xã phải hợp tác, liên kết với nhau để thực hiện các công việc thu hoạch, tiêu úng, bảo đảm phát triển kinh tế lấy nông nghiệp lúa nước làm chủ đạo.

Nước ta trở lại vị trí chiến lược của khu vực Đông Nam Á, nằm trên các đầu mối giao thông quan trọng trên bộ từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây là điểm đầu từ biển vào đất liền. Đây cũng là nơi giao lưu kinh tế, văn hóa thuận lợi và cũng là nơi xảy ra nhiều xung đột và nguy cơ xâm lược của ngoại bang. Đòi hỏi phải có liên minh, lực lượng mạnh nhất để tự vệ, không tự tước đi phần cốt yếu như đòi liên hiệp để đấu tranh chống trở nên sợ hãi thiên nhiên.

Yêu cầu cần có người chỉ huy tập hợp nhân dân để quản lý kinh tế, giao thông, giúp dân làng làm ăn, chống lụt, bảo vệ mùa ngoại (làm thủy lợi).

Vì vậy, cần có sự liên minh, hợp nhất của nhiều bộ lạc lớn (mà sử cũ gọi là 15 bộ) thành một lãnh thổ chung do bộ tộc Văn Lang làm trung tâm. Liên minh Bộ tộc Văn Lang là cửa ải quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Từ các đơn vị công xã của xã hội nguyên thủy, bộ lạc đã hình thành nên các đơn vị hành chính (bộ) của một quốc gia cùng với sự hình thành một lãnh thổ chung, một tổ chức chung để quản lý và điều hành xã hội.

2. Sự ra đời của nước Văn Lang Âu Lạc:

2.1. Sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc:

Trong lịch sử nước Văn Lang thuộc thời Hồng Bàng (?2879 TCN – 258 TCN). Đây là thời kỳ có tính chất nửa lịch sử, nửa thần thoại khi người Việt cổ chưa có chữ viết. Lịch sử chỉ được ghi lại qua miệng. Dựa vào truyền thuyết, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết rằng Lộc Tục lên làm vua vùng đất phía nam núi Ngũ Lĩnh (Quảng Đông) vào năm 2879 TCN. Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Lãnh thổ của Xích Quỷ khá rộng, phía Bắc là núi Ngũ Lĩnh, Nam giáp Hồ Tôn (gọi tắt là vua Chiêm Thành), Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và Đông là Nam Hải. Kinh Dương Vương lấy Thần Long, con gái Động Đình cáo, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm lên làm vua thay Kinh Dương Vương, lấy hiệu là Lạc Long Quân.

Tương truyền, Lạc Long Quân là dòng dõi ngoại mẫu nên thường sống nơi nước động. Khi có vấn đề cần giải quyết, con người thường tìm đến hang nước và kêu lên: “Bố ơi, bố ở đâu? Hãy đến với con”. Thế là Lạc Long Quân liền xông vào giải quyết mọi việc khó khăn cho dân chúng. Lạc Long Quân gặp Âu Cơ và lấy nàng làm vợ. Họ sinh ra một phần trăm con trai (hoặc 100 quả trứng). Một hôm, khi con đã lớn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là rồng, ở dưới nước, nàng là tiên, ở trên cạn.

Thủy hỏa khắc nhau, không ở được lâu với nhau”. Thế là hai người chia tay. Năm mươi người con ở lại với cha dưới nước. Năm chục người con còn lại theo mẹ sinh sống. Họ đến ở tại Phong Châu (Vĩnh Phú), tôn người con trưởng làm vua, cùng nhau gây dựng cơ nghiệp. Cũng chính từ truyền thuyết này mà người Việt vẫn tin rằng tổ tiên của họ là tiên rồng. Người con cả trở thành thủ lĩnh khai khẩn ruộng đất mới. Đó là Hùng Vương đầu tiên. Mở đầu thời đại mà sử sách gọi là thời đại Hùng Vương. Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc (Việt Trì, Vĩnh Phú).

2.2. Sơ lược cấu trúc nhà nước thời Văn Lang – Âu Lạc:

Sơ lược cấu trúc nhà nước thời Hùng Vương theo hệ thống 3 cấp của bộ máy cai trị tương ứng với 3 cấp quan lại. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Hùng Vương truyền ngôi cha truyền con nối. Hùng Vương còn là vị minh quân, chủ trì các nghi lễ tôn giáo.

Dưới quyền và giúp việc cho Hùng Vương có Lạc hầu, Lạc tướng. Lạc tướng cũng trực tiếp điều hành công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (trước đây là trưởng) cũng cha truyền con nối, còn gọi là phụ đạo, phụ tử. Dưới bộ có các xã (lúc bấy giờ viết là men, chà, chiêng). Đứng đầu dân, cha, chiêng là bạn chính (nghĩa là già làng). Ngoài hiệu trưởng, có thể có một nhóm người hợp thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng cấp xã tham gia quản lý các công việc của công nông thôn. Mỗi xã có một trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là nhà công vụ.

Căn cứ vào lời Mã Viện tâu với vua Hán về tình hình nước Âu Lạc trước khi nhà Hán sang xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nói, vào thời trung đại, nước Văn Lang đã có pháp luật để cai trị xã hội. Sách Hậu Hán thư viết “Việt luật” khác Hán luật hơn mười điều”. Có thể “Việt luật” mà Mã Viện sử dụng là luật phụ. nay là người Lạc Việt, quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt.

Đại Việt sử lược chép rằng: Đời Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN) có người lạ ở Gia Ninh dùng phép thu phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng ở Văn Lang, hiệu là Hùng Vương. tên nước là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn (505-462 TCN) sai người dụ hàng nhưng Hùng Vương không theo.

Căn cứ vào các tư liệu và các yếu tố nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể có cơ sở để suy đoán rằng thời điểm ra đời của nhà nước Văn Lang với tư cách là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII – VI TCN (thời Đông Sơn).

Tuy sự ra đời của nước Văn Lang còn sơ khai và hơi sớm khi sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc (như tác động mạnh mẽ của yêu cầu thủy lợi và động cơ chống ngoại xâm thúc đẩy sự ra đời sớm của nó) nhưng đã đánh dấu một mốc son quan trọng. Một bước phát triển mạnh mẽ, có ý nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam – mở đầu cho thời kỳ dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.

3. Ý nghĩa của sự ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc:

Đây là sự kiện được xác định là có thật của thời đại Hùng Vương.

Người Việt cổ đã xây dựng nền văn minh đầu tiên với những thành tựu vô cùng vĩ đại và rực rỡ, khẳng định lịch sử dựng nước sớm và lâu đời của dân tộc Việt Nam, tạo cơ sở hình thành dân tộc Việt Nam

Với những thành quả rực rỡ này đã tạo nên lối sống truyền thống và bản lĩnh của người Việt Nam

=> Trở thành thế chủ động để dân tộc Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh chống phương Bắc hơn 1000 năm, giành lại độc lập dân tộc, bước vào thời kỳ phát triển.

*Những điểm tương đồng và khác biệt trong đời sống kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng của cư dân Văn Lang – Âu Lạc, cư dân Lâm Ấp – Chămpa và cư dân Phù Nam:

– Giống nhau:

+ Kinh tế chủ yếu là trồng lúa nước, dùng sức kéo của trâu, bò. Ngoài ra, cư dân còn chăn nuôi gia súc, làm đồ thủ công mỹ nghệ và đánh cá.

+ Có tục ở nhà sàn, có đời sống văn hóa phong phú gắn với sản xuất nông nghiệp

– Khác biệt :

+ Ở cư dân Văn Lang – Âu Lạc, nghề đúc đồng, làm đồ gốm phát triển mạnh, trong khi cư dân Chămpa phát triển khai thác lâm thổ sản, xây tháp, thì ở cư dân Phù Nam, nghề đánh cá và buôn bán bằng đường biển lại phát triển rực rỡ.

+ Cư dân Văn Lang – Âu Lạc có các tín ngưỡng phổ biến như thờ cúng tổ tiên, thờ cúng ông bà tổ tiên, các anh hùng dân tộc và những người có công với làng, với nước. Trong khi đó, ở các nước Chămpa và Phù Nam, do dậy thì muộn hơn nên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Ấn Độ giáo và Phật giáo.