Hòa giải mấy lần thì xét xử theo quy định? [Chi tiết 2024]

Hòa giải là thủ tục bắt buộc trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Tại Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự cũng nêu rõ: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.” Vậy hòa giải mấy lần thì xét xử theo quy định? Hãy cùng ACC tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây

GettyImages-941030064-1024x683
Hòa giải mấy lần thì xét xử theo quy định? [Chi tiết 2023]

1. Tòa án có bắt buộc phải tiến hành hòa giải không?

Hòa giải là thủ tục bắt buộc trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Tại Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự cũng nêu rõ: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.”

Việc hòa giải phải được tiến hành theo các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Cụ thể như sau:

  • Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình;
  • Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Như vậy, Tòa án có trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau. Đây được xem là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự và việc hòa giải đem lại nhiều lợi ích cho cả đương sự và tòa án.

Quy định trên đã nêu rõ trách nhiệm của Tòa án trong việc hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau, là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự. Pháp luật hiện hành hiện nay không quy định cụ thể về số lần hòa giải mà tòa án có thể tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao tại tiểu mục 14 mục IV Văn bản giải đáp số 01/2017 ngày 7-4-2017 thì về cơ bản, tòa có thể tiến hành hòa giải nhiều lần.

Cụ thể quy định này như sau:

“Trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần thì lần hòa giải đầu tiên Tòa án phải tiến hành theo đúng trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải quy định tại Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đối với lần hòa giải tiếp theo, Tòa án chỉ tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ khi có tài liệu, chứng cứ mới và ghi vào biên bản hòa giải.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.”

2. Các trường hợp không thực hiện thủ tục hòa giải hoặc không hòa giải được trong tố tụng dân sự

2.1 Các trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải:

Điều 206 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định những vụ án dân sự không được hòa giải. Bao gồm:

  • Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
  • Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.

2.2 Các trường hợp vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được:

Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được. Bao gồm:

  • Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
  • Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.
  • Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
  • Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.

3. Thủ tục tiến hành hòa giải

Theo quy định tại khoản 4 Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Thủ tục tiến hành hòa giải được thực hiện như sau:

Thẩm phán phổ biến cho các đương sự về các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các đương sự liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án;

Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày nội dung tranh chấp, bổ sung yêu cầu khởi kiện; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);

Bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có); những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu phản tố của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn; trình bày yêu cầu độc lập của mình (nếu có); những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu độc lập của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);

Người khác tham gia phiên họp hòa giải (nếu có) phát biểu ý kiến;

Sau khi các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất và yêu cầu các đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất;

Thẩm phán kết luận về những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất.