Ý nghĩa dược lý của vôi trầu

Miếng trầu vừa là nét đẹp văn hóa trong ngày Tết, vừa có ý nghĩa dược lý, hóa học tạo nên nhiều bài thuốc chữa bệnh.

“Miếng trầu là đầu mối”, tục ăn trầu từ xa xưa đã là một nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt, trở thành một nếp sống đẹp. Tết đến xuân về, trầu cau còn được dùng làm quà biếu.

1. Trầu cau chỉ là món ngọt nhưng mang nhiều ý nghĩa.

Trầu không có vị cay cay, lá có vị cay nồng, mùi thơm nồng, tính ấm, có tác dụng kích thích, long đờm, trừ phong thấp, tiêu viêm, sát trùng. Trong sách “Bài thuốc đầy hơi” của Lương y Nguyễn Minh Ngọc, người ta dùng lá trầu không để chữa đau bụng, đầy hơi, ợ hơi. Cách dùng như sau: hơ nóng lá trầu không rồi đắp lên rốn hoặc lên các nốt khí hư rồi dùng nhang hơ nóng. Mục đích của việc xông nóng là để thuốc thẩm thấu qua da vào bên trong để hoạt huyết lưu thông.

2. Vôi ăn trầu chữa được nhiều bệnh

Có người dùng lá trầu để đánh gió, trị cảm. Cách dùng như sau: vò nát lá trầu, gói vào khăn vải nhúng nước sôi, hơ gió hai bên sống lưng (kinh phế) cho thông khí, đuổi tà khí. Phương pháp này rất tốt cho trẻ em vì da của trẻ còn mỏng và không nên cạo.

Người ta còn dùng lá giã nát đắp lên mụn nhọt hoặc đun nước tắm trị rôm sảy, ghẻ lở. Ngậm nước lá trầu trong miệng để điều trị viêm nha chu. Lá chứa chất kháng khuẩn polyphenol, có tác dụng diệt tụ cầu, trực khuẩn coli…

Ăn trầu là một nét đẹp trong văn hóa Việt Nam. Ảnh: Flickr

Ăn trầu là một nét đẹp trong văn hóa Việt Nam. Ảnh: Flickr

Cùng với lá trầu không thể thiếu quả cau. Quả cau còn gọi là lang trung, vị cay nồng, hơi cay tính nóng, vào các kinh tỳ vị, đại tiểu trường. Quả cau có đặc tính không gây dị ứng, khử nước và sát trùng. vỏ lợi tiểu. Hạt trị giun sán, đầy bụng, tả. Trong hạt cau có nhiều tanin và một loại ancaloit gọi là arecolin. Hạt cau làm tê liệt thần kinh giun sán, giun sán không còn khả năng bám vào thành ruột và dễ dàng tống ra ngoài, dùng phối hợp với các vị thuốc khác. Lâu nay trầu là bán vôi. Canxi hiđroxit hấp thụ CO2 tạo thành CaCO3 – vôi ăn trầu là hỗn hợp của Ca(OH)2 và CaCO3 nên người biết ăn trầu không ăn vôi mới. Khi ăn trầu, dùng nhiều vôi có thể làm bỏng niêm mạc.

Sự kết hợp của ba loại “trầu, cau, vôi” tạo thành một bài thuốc có nhiều công dụng chữa bệnh, đồng thời tạo ra nhiều hiện tượng hóa học và dược lý. Nhai lá trầu với miếng cau và thêm một ít vôi khiến miếng trầu đỏ như máu. Arecoline từ hạt cau có đặc tính kích thích tuyến nước bọt. Vì vậy, khi ăn trầu bao giờ cũng phải có một chiếc ống nhổ bên cạnh để nhổ nước cốt trầu ra, nếu khạc bừa bãi sẽ gây mất vệ sinh.

Arecolin từ hạt có tác dụng làm chậm nhịp tim, nhưng tính chất này bị triệt tiêu khi có muối vôi (Canxi) nên ăn trầu không sợ rối loạn nhịp tim. Cũng ngạc nhiên là trước đây không ai biết làm thí nghiệm dược lý, không ai biết canxi ức chế tác dụng của Arecolin như thế nào.

Lá trầu từ lâu đã được biết đến với tác dụng bảo vệ răng miệng vì lá trầu có tính sát trùng. Chất chát làm cho nướu co lại, ép chặt vào chân răng giúp răng cứng chắc, giữ cho răng không bị lung lay. Đặc tính khử trùng của lá trầu giúp chân răng không bị sưng tấy. Nhai trầu cũng là một bài tập cho răng, giống như người châu Âu nhai kẹo cao su. Đó là một phương pháp vật lý trị liệu rất tốt.

Ăn trầu có thể phòng được nhiều bệnh, nhưng có một số điều cần lưu ý. Miếng trầu và miếng trầu dính giữa hai hàm răng làm cho khó coi. Nước trầu nóng và hăng, làm cho vị giác kém tinh tế, bỏ qua các hương vị khác, làm khô môi. Vì vậy, sau khi ăn trầu, bạn nên đánh răng và súc miệng.